CÁC ĐIỆP VIÊN TRUNG QUỐC: TỪ CHỦ TỊCH MAO TỚI TẬP CẬN BÌNH (5)

08/ 04/ 2023

 CÁC ĐIỆP VIÊN TRUNG QUỐC: TỪ CHỦ TỊCH MAO TỚI TẬP CẬN BÌNH (5)

Roger Faligot

Nguyễn Trung Kiên trích dịch (Kỳ 5)

 

(Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4)

 

 

Vào ngày 6 tháng Chín năm 1943, Mao và Khang Sinh đã phát động một chiến dịch “cải tổ nghiệp vụ gián điệp”, trong đó, như Vladimirov giải thích, “mọi người - dù già hay trẻ - đều bận bịu săn lùng gián điệp hoặc bị lộ diện”. Ở giai đoạn điều tra này, ĐCSTQ đã hết tiền. Tuy nhiên, khi một số nhà lãnh đạo hiểu rằng đã đến lúc phải chấm dứt những hoạt động như vậy, họ rõ ràng có nguy cơ bị cáo buộc là gián điệp. Ngay cả Chu Ân Lai cũng trở nên nghi ngờ trong mắt Khang Sinh. Dù sao thì Chu cũng đã từng tiếp xúc với Quốc dân Đảng ở Trùng Khánh. Có lẽ sự hợp tác của ông đã bắt đầu vào năm 1927, tại Học viện Quân sự Hoàng Phố. Có thể sự phản bội năm 1931 của Cố Thuận Chươngở Thượng Hải trên thực tế không phải là một tai nạn đáng tiếc. Và Chu đang tiếp xúc với Nhóm Quan sát của Quân đội Hoa Kỳ - một phái bộ được Tổng thống Roosevelt cử đến Diên An vào tháng Chín năm 1944 để điều phối cuộc chiến chống lại quân Nhật, được gọi là ‘Nhiệm vụ Dixie’ của Đại tá Barrett.

Tuy nhiên, hầu như không thể tấn công Chu - người có sự ủng hộ toàn diện của cả Mao và Liên Xô. Điều này trở nên rõ ràng sau khi một cú ngã ngựa không may ở Diên An khiến ông phải nhập viện ở Liên Xô - mặc dù điều này không ngăn được SAD tấn công những người trong nhóm của ông, bao gồm cả Tiền Tráng Phi, người từng cứu cả ban lãnh đạo của Đảng bằng cách thông báo cho các lãnh tụ cộng sản tại Thượng Hải về vụ đào tẩu của nhà ảo thuật Cố. Tiền không may bị bắt, bị tra tấn và hành quyết. Chính những yếu tố khiến chuyên gia toán về học này trở thành anh hùng - vì đã xâm nhập vào bộ phận truyền thông của Tưởng Giới Thạch - giờ đây đã chống lại ông. Khang Sinh tin rằng điệp viên hai mang đã trở thành điệp viên tay ba. Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc tấn công bạo lực nhắm vào người bất hạnh họ Tiền này là do ông đã thực hiện sứ mệnh của mình với tư cách là một trùm cộng sản vào năm 1931 dưới sự chỉ đạo của Trần Vân và Chu Ân Lai, mà Khang Sinh không được thông báo.

Trong khi đó, Chu đã thành công trong việc trả tự do vào phút cuối cho Trần Mộ Hoa, một thành viên của bộ máy ngoại giao mà ông đã thiết lập, người sau này đã nổi tiếng nhờ các hoạt động đối ngoại của bà ở châu Phi, nơi bà thúc đẩy liên kết thương mại và thiết lập chương trình kế hoạch hóa gia đình. Khang buộc tội bà làm gián điệp. Lỗi thực sự của bà là liên hệ với một vị tướng của Quốc dân Đảng. Nhưng Khang đã vượt qua ranh giới đỏ trong dịp này; ông đã tấn công quá nhiều gián điệp và phản cách mạng, thậm chí còn nghi ngờ một trong những người con trai của Mao.

Mao nói rõ với Khang rằng điều quan trọng là phải biết thời điểm kết thúc chiến dịch chỉnh đốn, đồng thời giải thích rằng không nên giết những kẻ tình nghi thực sự. Có bao nhiêu người chết ở Diên An? Khoảng 2.000 người, như tôi được cho biết ở Bắc Kinh. Thật khó để biết. Để so sánh, nhà Hán học Jean-Luc Domenach tuyên bố rằng, trong cuộc thanh trừng từ tháng Năm đến tháng Bảy năm 1940 ở Hồ Bắc, có tới 360, 1.200 và 2.000 vụ hành quyết đã diễn ra ở ba quận lân cận.

Những người cộng sản bây giờ phần lớn nằm dưới sự chỉ đạo của Moscow. Vào ngày 22 tháng Mười Hai năm 1943, George Dimitrov, người Bulgaria, người đã giám sát việc ngừng chính thức các hoạt động của Quốc tế Cộng sản trên toàn thế giới, đã gửi một bức điện chỉ trích chiến dịch này và yêu cầu Mao phải đảm bảo cả tính mạng Vương Minh – đối thủ chính trị của Mao, và vị trí của Chu Ân Lai. Ban lãnh đạo Matxcơva thậm chí còn cho rằng Khang là “một gián điệp bị buộc tội tiêu diệt ĐCSTQ từ trên xuống dưới”, và tự hỏi làm thế nào mà người Xô-viết trung thành nhất lại có thể trở thành kẻ phản bội như vậy, quay lưng lại hoàn toàn với những người cố vấn cũ của mình. Trong bầu không khí hoang tưởng và cuồng gián điệp lan tràn này, điều đó không hoàn toàn nằm ngoài giới hạn khả năng xảy ra, như một nhà nghiên cứu Bắc Kinh đã đề xuất — không phải không có ác ý — “một ngày nào đó chúng ta sẽ phát hiện ra rằng Khang Sinh luôn trung thành với người Nga, rằng ông ta là gián điệp của họ, và nhiệm vụ của ông ta là làm cho Đảng Cộng sản Trung Quốc sụp đổ”.

Phản ứng này từ Điện Kremlin là điều dễ hiểu. Hai tháng trước, Vladimirov đã cố gắng cử bác sĩ của mình, Orlov, đến thăm Vương Minh; Orlov nhận ra rằng Vương đang bị đầu độc liên tục với liều lượng nhỏ. Vào ngày 2 tháng Một năm 1944, Mao gửi một bức điện cho Dimitrov để trấn an ông ta về vị trí của Chu Ân Lai, nhưng giải thích rằng, vì Vương Minh trước đó đã bị Quốc dân Đảng bắt và được thả trong những trường hợp đáng ngờ nên không thể tin cậy được. Vài ngày sau, theo lời kể của Vladimirov, Mao mời Vương đến nhà hát kịch Bắc Kinh, nơi nhà lãnh đạo quay lại với những nhận xét thích hợp và bày tỏ lòng biết ơn đối với đồng chí Stalin của Liên Xô vừa cứu sống Vương Minh: ông sẽ được đưa trở lại Liên Xô vào năm 1950. Điều này cho phép họ duy trì quan hệ đồng minh với Mao mà không trực tiếp chống lại Khang Sinh.

Tuy nhiên, rắc rối đang đặt ra cho Khang, người dàn dựng cuộc thanh trừng lớn đầu tiên của Trung Quốc. Ban lãnh đạo ĐCSTQ lúc này đã công khai chống lại ông ta, với lời chỉ trích gay gắt nhất đến từ Chu Ân Lai, vào ngày 6 tháng Chín năm 1944. Hận thù kẻ được biết đến đằng sau những lời dị nghị là “kẻ treo cổ của Đảng” đến mức Mao phải buộc Khang thực hiện bản tự kiểm điểm của mình vào tháng Ba năm 1944: “Đó là một sai lầm chủ quan, chỉ có 10% số đồng chí bị chỉ trích thực sự là gián điệp!” là bản chất của lời giải thích của ông. Bên cạnh đó, những tin đồn ngấm ngầm lan truyền về Khang - liên quan đến cuộc hôn nhân tay ba của ông với Tào Dật Âu và Tô Mai; thực tế là ông đã xác minh cho “sự trong sáng về chính trị” của Giang Thanh; và những hoàn cảnh bí ẩn về việc ông được kết nạp vào ĐCSTQ và cuộc sống bí ẩn của ông tại Thượng Hải khi sống dưới trướng của một thủ lĩnh Thanh Bang.

Khang đã bị miễn nhiệm khỏi vị trí điều phối viên của các cơ quan tình báo — giờ đã hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của Lý Khắc Nông — và được cử trở về quê hương Sơn Đông của mình để thiết lập một chiến dịch “cải cách nông nghiệp”. Ông tiếp tục lãnh đạo một cuộc thanh trừng bạo lực khác ở tỉnh đó. Chiến dịch chỉnh đốn Diên An còn có một tác động tiêu cực khác: rất lâu sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, các đảng viên vốn từng sống ở Diên An là tâm điểm của cuộc chiến chống gián điệp vốn nghi ngờ rằng họ hoạt động hai mang. Rốt cuộc, không lửa thì làm sao có khói.

 

CƠ QUAN MẬT VỤ THAY THẾ CỦA CHU ÂN LAI

Ngay cả giữa cuộc hỗn chiến chính trị này, Chu Ân Lai đã quyết định không để cho Khang Sinh là người kiểm soát duy nhất tất cả các cơ quan tình báo. Lý Khắc Nông, tai mắt của Chu, từng là cấp phó của SAD. Bây giờ, bất chấp những tin đồn xoay quanh Lý về mối quan hệ của ông với các chàng trai trẻ của Đội Thiếu niên Tiền phong Đỏ mà ông vẫn thường thấy, ông đã đảm nhận vị trí người đứng đầu toàn bộ cơ quan mật vụ.

Chu Ân Lai đã tụ tập xung quanh một vài người tin cậy ông từng biết khi cùng hoạt động tại Paris hay Thượng Hải, để thiết lập, với sự hỗ trợ Diệp Kiếm Anh, một cơ quan tình báo quân sự mới: Cục 2, đó là độc lập với cơ quan quân báo của Hồng quân Trung Quốc tồn tại từ trước đó mật. Người đứng đầu Cục 2 là một trong những đồng chí của Lý Khắc Nông, Lưu Thiệu Văn, người đã liên lạc với Trần Canh, người đứng đầu bộ phận chính trị của Quân ủy Hồng quân.

Cơ quan mật vụ này đã được chú ý đặc biệt để giữ cho các hoạt động tình báo quan trọng báo thoát khỏi quỹ đạo phá hoại của Khang Sinh và nó là gốc rễ của một sự sắp xếp bất thường tiếp tục cho đến khi Tập Cận Bình cải tổ Quân đội Giải phóng Nhân dân vào năm 2017 (xem Chương 14): sự tồn tại của hai cơ quan tình báo quân đội Trung Quốc riêng biệt và cạnh tranh nhau: Cục 2 của Bộ tổng Tham mưu quân đội (Er Bu, hoặc PLA2), gần gũi với sự thành lập ban đầu của Chu, Ban Liên lạc chính trị tổng hợp (宗正 联络簿).

Trong khi đó, hai tổ chức dân sự, vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay, được trao quyền ngày càng tăng dưới thời Chu, với sự tán thành của Mao. Đầu tiên là ILD, Bộ Liên lạc Quốc tế của Đảng Cộng sản (中联部), báo cáo trực tiếp với Ủy ban Trung ương của ĐCSTQ. Vương Gia Tường, con trai của một nông dân, được đào tạo về tình báo Liên Xô, đã thành lập ILD tại căn cứ cộng sản Giang Tây vào năm 1931, trước khi thay Khang Sinh để làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Moscow. ILD trên thực tế là một loại hình Quốc tế Cộng sản thu nhỏ kiểu Trung Quốc, và trong những năm qua, ILD kiểm soát các mối quan hệ không chỉ với các cơ quan liên lạc của các đảng cộng sản khác trên thế giới, mà còn với các phong trào giải phóng thế giới thứ Ba khác nhau. Vương được tái bổ nhiệm làm người đứng đầu vào năm 1951, và giữ chức vụ cho đến năm 1966. Ngay cả sau đó, ông vẫn tiếp tục công việc này cho đến khi qua đời vào năm 1974 để duy trì liên lạc với các đảng chính trị quan tâm khác nhau trên thế giới, bất kể là đảng cánh tả, trung dung hay cánh hữu, cũng như tham mưu cho ban lãnh đạo của Đảng.

Cơ quan mật vụ thứ hai, cũng báo cáo trực tiếp với Ủy ban Trung ương ĐCSTQ, được gọi là “Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất” [UFWD] (统战工作 部). Thông qua công việc kín đáo và cẩn thận trong các tổ chức xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế và tôn giáo, UFWD đã chiêu dụ một bộ phận dân cư đáng kể đến với ĐCSTQ. Cả ở trong và ngoài nước, nó nhắm mục tiêu vào những người Trung Quốc nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của Quốc dân Đảng, hoặc chuẩn bị ly khai. Thậm chí ngày nay, nó vẫn tiếp tục sứ mệnh của mình để vận động Hoa kiều (华侨) tại nước ngoài ủng hộ Đài Loan thuộc về Trung Quốc (Huaqiao). Nói cách khác, từ thập niên 1940, Chu Ân Lai và các cộng sự của ông đã đặt ra mục tiêu gây ảnh hưởng đến các đảng phái và chính phủ nước ngoài và nhận được sự ủng hộ của các nhân vật có ảnh hưởng tới công chúng để giúp xây dựng một “Trung Quốc mới”. Chu đã chọn một người bạn lâu năm để đứng đầu UFWD: Lý Duy Hán, được biết đến nhiều hơn với tên gọi chiến sĩ du kích “La Mạch”, như André Malraux gọi ông trong cuốn tiểu thuyết “Trung Quốc” đầu tiên của mình, The Conquerors. Lý, một trong những sinh viên - công nhân thời còn ở Paris, giờ đã hoạt động hai mang, vừa là người vận động công nhân vừa là mật vụ ở Thượng Hải. Với UFWD, ông sẽ thiết lập một bộ máy chính để tác động đến dư luận quốc tế đối với chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc.

Để lập công, Lý Duy Hán và cơ quan UFWD của ông đã thu hút được một số nhân vật quan trọng tại Hoa Kỳ, bao gồm Tướng Lý Tôn Nhân, cựu Phó Chủ tịch Quốc dân Đảng, người đã đồng ý trở lại Trung Quốc vào năm 1965. Trước đó, và thậm chí quan trọng hơn, kỹ sư tên lửa Tiền Học Sâm đã được đưa trở lại hoạt động. Được đào tạo ở Mỹ, Tiền làm việc tại Phòng thí nghiệm Lực đẩy Máy bay Caltech vào năm 1950 khi FBI được cảnh báo rằng ông đang gửi sách và tạp chí kỹ thuật đến Trung Quốc - mặc dù tất nhiên đây không phải là gián điệp kỹ thuật, theo nghĩa là những vật liệu đều có sẵn và miễn phí. Dù thế nào, các các cơ quan điệp vụ của Trung Quốc sẽ khó có thể yêu cầu một nhà khoa học tầm cỡ của mình phải mạo hiểm ngồi tù khi có kế hoạch mời ông trở lại Trung Quốc để khởi động ngành công nghiệp tên lửa và trở thành một phần của nhóm phát triển bom nguyên tử - một sự khao khát của Mao kể từ năm 1945. Tuy nhiên, tình hình cực kỳ rủi ro: đây là lúc cao điểm của chiến dịch chống cộng của Thượng nghị sĩ McCarthy, mà đỉnh điểm là bản án tử hình và hành quyết vợ chồng ông bà Rosenberg khi họ là thành viên của nhóm gián điệp Liên Xô vốn đã xâm nhập vào Trung tâm Nguyên tử ở Los Alamos.

Năm 1955, Tiền trở lại Bắc Kinh để nghiên cứu việc phát triển tên lửa của Trung Quốc, và sau đó là tên lửa chống hạm nổi tiếng Silkworm. Ông không phải là người duy nhất: tám mươi bốn nhà khoa học Trung Quốc được đào tạo ở Mỹ đã trở lại Trung Quốc bởi chiến thuật chiêu dụ của UFWD. Vào ngày 5 tháng Mười Một năm 1960, nhờ Tiền, người Trung Quốc sẽ phóng tên lửa R-2 đầu tiên của họ, tiền thân của tàu ‘Hừng Đông’. Nguyên soái Nhiếp Vinh Trăn, người từng làm việc cho cơ quan kỹ thuật của Chu tại Paris và Thượng Hải, đã tham gia nhóm kỹ thuật phát triển vũ khí chiến lược của nước Trung Quốc cộng sản. Ông mở một chai sâm-panh trước sự chứng kiến của Tiền và tuyên bố: “Đây là tên lửa đầu tiên Trung Quốc bay qua đường chân trời của đất mẹ, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử của nước này”.

Một trong những người cộng tác với Tiền và Nhiếp, Tiền Tam Cường, được cho là cha đẻ thực sự của bom nguyên tử Trung Quốc. Sinh năm 1907 tại Chiết Giang, ông đang làm việc trong một phòng thí nghiệm ở châu Âu khi Nhật Bản tấn công Trung Quốc năm 1937, là thành viên của nhóm nghiên cứu nguyên tử của Irène và Frédéric Joliot-Curie ở Paris, một phần của CNRS (Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia). Tiền Tam Cường và vợ, nhà vật lý Hà Sách Huy, đã chứng kiến sự phân tách của hạt nhân uranium và thorium dưới sự kích hoạt của neutron, và họ cũng có dịp gặp gỡ các nhà khoa học nguyên tử khác có liên quan đến hoạt động tình báo bí mật của Liên Xô, bao gồm cả Bruno Pontecorvo, người mà, sau khi chuyển đến Moscow, sẽ tiếp tục giúp Trung Quốc chế tạo bom nguyên tử của riêng họ.

Năm 1947, cặp vợ chồng người Trung Quốc này đã khám phá ra các nguyên tắc chi phối sự phân chia ba và phân hạch bậc bốn của uranium. Điều này dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về sự phân hạch hạt nhân ở cả Pháp và ở Moscow, nơi kết quả các thí nghiệm của họ đã được gửi đến. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc chắc chắn rất vui mừng khi các nhà khoa học lỗi lạc này trở lại Trung Quốc vào năm 1948, vào đêm trước chiến thắng của Hồng quân trước Quốc dân Đảng; nó có nghĩa là, khi thời cơ đến, họ sẽ không còn phải phụ thuộc vào thiện chí của các nhà khoa học Liên Xô.

Vào tháng Mười Một năm 1949, Tưởng Giới Thạch rút lui và chạy sang Đài Loan. Theo truyền thống Trung Quốc, một vị tướng bại trận và quân đội của ông đã đào ngũ. Đây là trường hợp của các cựu sĩ quan tình báo thuộc cơ quan mật vụ quốc gia (BIS) do Đới Lực lãnh đạo. Lộ trình rõ ràng này đã được thúc đẩy nhanh chóng bởi cái chết của Đới Lực trong một vụ tai nạn máy bay vào ngày 17 tháng Ba năm 1946, và người thay thế ông ngay sau đó, tướng Mao Phong, cha của người vợ đầu tiên của Tưởng Giới Thạch. Vụ tai nạn đôi khi được đổ lỗi cho các cơ quan điệp vụ của những người cộng sản, nhưng có lẽ chỉ đơn giản là do sương mù dày đặc. Nhiều cuộc đào ngũ đã diễn ra sau đó. Kẻ đào ngũ nổi tiếng nhất là Thẩm Túy, một cựu cán bộ của BIS và là trợ lý phụ trách trại giam của Đới Lực, người theo yêu cầu của Chu Ân Lai và để được sự khoan hồng từ những người cai ngục cộng sản của mình, đã viết “tài liệu thú tội” (夹带材料) mà sau đó đã được chuyển thành những cuốn sách được lưu hành rộng rãi mô tả sự sa đọa của các sếp của Thẩm trong các cơ quan mật vụ quốc gia [của Quốc dân Đảng].

Tuy nhiên, việc xuất bản các cuốn sách tuyên truyền rõ ràng không phải là cách tốt nhất để tác động đến các nền dân chủ hoặc khiến công chúng có lợi cho mình. Chu Ân Lai và các cơ quan mật vụ Trung Quốc của ĐCSTQ hiện đang chiến thắng biết rằng họ phải hết sức khôn khéo trong việc sử dụng các tác nhân gây ảnh hưởng và khai thác thiện chí của nhóm tinh hoa văn hóa trong giới thượng lưu mà họ không hề hay biết.

PEARL S. BUCK, CHỊ EM NHÀ HỌ CUNG VÀ ELEANOR ROOSEVELT

Năm 1937, mười năm trước khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, giám đốc FBI J. Edgar Hoover, người đứng đầu cơ quan phản gián Hoa Kỳ, đã mở hồ sơ về tiểu thuyết gia Pearl S. Buck. Ngay cả khi bà giành được Giải Nobel Văn chương vào năm sau, cho một sự nghiệp văn chương với các tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Trung Quốc— Gió Đông-Gió Tây, Đất lành, Những người con trai, Người mẹ, Một ngôi nhà bị chia cắt — bà vẫn bị theo dõi. Hoover không quan tâm đến các nhà văn, và với những mệnh lệnh dành cho “Untouchables”, một nhóm đặc vụ liên bang khét tiếng có trụ sở tại Chicago, đã tích lũy được vô số tài liệu về Buck, một nhà vận động nhiệt thành cho nhân quyền và chính nghĩa Trung Quốc. Như các ghi chép cho thấy, mặc dù mắc chứng hoang tưởng huyền thoại, nhưng Hoover không sai ở một điểm: Buck đã cố gắng tác động đến vợ của tổng thống, Eleanor Roosevelt, để từ bỏ mối quan hệ của bà với bà Tưởng Giới Thạch và ủng hộ những người cộng sản Trung Quốc: “Họ là những người có được sự ủng hộ thực sự của người dân. Bà phải nói chuyện với Chu Ân Lai”, nữ tiểu thuyết gia nhấn mạnh.

Buck kêu gọi bà Roosevelt chú ý đến Tống Khánh Linh, góa phụ của cố lãnh tụ và người sáng lập Quốc dân Đảng, Tôn Trung Sơn. Tốt nghiệp Đại học Wesleyan, bà Tôn Trung Sơn chưa bao giờ trở thành một người cộng sản, nhưng vào năm 1926, khi vừa trở thành góa vợ, bà đã đến thăm Moscow, ngay sau khi Tưởng Giới Thạch nắm quyền kiểm soát Quốc dân Đảng và góp phần lớn vào việc tham nhũng ngày càng lan rộng, đặc biệt là nhờ vào các mối quan hệ của ông với Thanh Bang. Bà Tôn đã tham gia vào nhiều chiến dịch tuyên truyền thông qua nhiều ủy ban, liên đoàn và mặt trận chống chủ nghĩa đế quốc, tất cả đều do Willy Münzenberg, lãnh đạo của đế chế truyền thông Quốc tế Cộng sản, điều hành. Tại Hoa Kỳ, bà tham gia “vận động hành lang cho Trung Quốc” với chính em gái mình, bà Tống Mỹ Linh – vợ của Tưởng Giới Thạch - và các thành viên khác của gia đình họ Tống giàu có.

Buck không gặp khó khăn gì khi thuyết phục Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ rằng bà Tôn Trung Sơn là người duy nhất trong gia đình theo đuổi lý tưởng của chồng với sự chính trực thực sự. Ba chỉ ra các hoạt động tội phạm của Quốc dân Đảng, nói với bà Roosevelt về Đới Lực, người đứng đầu cơ quan đặc nhiệm, khi đó vẫn còn sống và hoạt động rất tích cực, và có biệt danh là “Himmler của Trung Quốc”.

Elean Roosevelt và nhóm của bà phần lớn là nữ. Nhóm này bao gồm một người phụ nữ Trung Quốc đáng chú ý khác, cũng là một phần trong nhóm đặc nhiệm của Chu Ân Lai: Cung Bồ Sinh. Là con gái của một trong những vị tướng của Tôn Trung Sơn trong cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, Cung từng là một sinh viên xuất sắc tại Đại học Columbia, nơi cô và em gái út Cung Bành, đã lãnh đạo phong trào sinh viên phi cộng sản. Sau đó, số phận của hai chị em nhà Cung dường như đã xa nhau. Cô em gái Cung Bành, người yêu thích những câu chuyện về danh dự, những kẻ sống ngoài vòng pháp luật và các lãnh chúa, giống như bộ tiểu thuyết Tam Quốc Chí, đã đến Diên An vào năm 1935, nơi bà trở thành thư ký của Chu Ân Lai ở Trùng Khánh. Bà chủ yếu làm việc trong các mối quan hệ báo chí, qua đó bà có nhiều bạn bè, trong đó có nhà báo người Mỹ Edgar Snow. Bà thực hiện nhiều nhiệm vụ liên lạc ở nước ngoài cho ĐCSTQ, và sau khi bà kết hôn với một nhà lãnh đạo Đảng có tên Kiều Quán Hoa, Chu dã đưa cặp vợ chồng này tới Hồng Kông thành lập tờ Thông Tấn Xã Trung Hoa mới, một cơ quan hai mang vừa hoạt động tuyên truyền vừa là ổ tình báo. Năm 1949, khi nước Cộng hòa Nhân dân được thành lập, Cung Bành trở thành giám đốc bộ phận tình báo (Vụ trưởng Vụ Báo chí điều tra - 外交部调查新闻司) của Bộ Ngoại giao do Chu làm Bộ trưởng, một chức vụ mà bà giữ cho đến năm 1958.

Trong khi đó, “Chị cả” Cung Bồ Sinh đóng một vai trò quan trọng tại Hoa Kỳ. Bà đã trở thành thành viên của Ủy ban Nhân quyền tại Hội Quốc Liên ở New York, và theo yêu cầu của Chu, bà đã thâm nhập vào tình bạn với giới tinh hoa của Đảng Dân chủ. Đương nhiên, bà thu thập những thông tin tình báo có giá trị đỏ mà cô đã chuyển cho cơ quan mật vụ Trung Quốc.

Cũng giống như cô em gái, Cung Bồ Sinh vô cùng xinh đẹp. Bà cũng là một người theo đuổi chủ nghĩa bình quyền nam nữ đầy nhiệt thành. Bà và Eleanor Roosevelt có mối quan hệ tốt đẹp và bà đã nhanh chóng trở thành bạn thân và là tri kỷ của Đệ nhất phu nhân. FBI đã biết về mối quan hệ của bà với vợ của Tổng thống, nhưng vì họ chủ yếu coi bà là con gái của một vị tướng của Quốc dân Đảng, nên họ dường như không biết rằng bà cũng có thể là một đảng viên bí mật của ĐCSTQ. Pearl Buck, người không giấu giếm sự thù ghét gia tộc của Tưởng Giới Thạch, đã bị giám sát chặt chẽ hơn nhiều. Nhóm vận động hành lang ủng hộ Quốc dân Đảng vẫn rất quyền lực ở Hoa Kỳ, và luôn theo dõi sát sao bà. Cuối cùng, bất chấp sự thúc giục của cả Pearl Buck, Tống Mỹ Linh lẫn Cung Bồ Sinh, vào năm 1943, Eleanor Roosevelt bị chồng bà ép buộc phải hủy bỏ một chuyến đi đến Trung Quốc, trong đó bà đã lên kế hoạch gặp Chu Ân Lai. Nhưng Chu vẫn phải đưa ra quyết định cuối cùng.

ĐIỀU BÍ ẨN CỦA ‘SEN XANH’

Điệp vụ “Sen Xanh” là một trong những tình tiết kỳ lạ nhất liên quan đến các điệp viên của Quốc tế cộng sản, các hoạt động điệp vụ bí mật của Trung Quốc và mạng lưới các ảnh hưởng trong thế giới điệp vụ của Chu Ân Lai.

Hergé ban đầu nổi tiếng vào năm 1930 sau khi tập truyện Tintin đầu tiên của ông, ‘Tintin ở Vùng đất Xô-viết’, được xuất bản nhiều kỳ trên phụ bản dành cho trẻ em của một tờ báo Công giáo cánh hữu của Bỉ. Vào thời điểm đó, phù hợp với chủ bút và độc giả của mình, ông không cố gắng che giấu sự không thích chủ nghĩa cộng sản của mình. Nhưng ‘Sen Xanh’, cuốn sách đã thực sự khiến ông trở nên nổi tiếng vào 5 năm sau, lại hoàn toàn khác. Hergé đã đọc rất nhiều trong khi viết bộ sách này, bộ sách được viết ra bởi những nghiên cứu sâu sắc nhất so với toàn bộ các tác phẩm của ông. Phim kể về câu chuyện của Tintin ở Trung Quốc, dũng cảm tham gia vào cuộc chiến chống lại những kẻ buôn bán ma túy ở các tổ chức với cả cơ quan mật vụ Nhật Bản, đứng đầu là Mitsuhirato xảo quyệt, và các thế lực đế quốc, những người trị vì khu Tô giới Quốc tế - cảnh sát trưởng của câu chuyện, Dawson, được mô phỏng theo Patrick Givens, quê Ireland, người đứng đầu Chi nhánh Đặc biệt tại Thượng Hải và là kẻ thù của những người cộng sản tại Thượng Hải.

Có lẽ mọi người đều tin rằng các đồng minh của Tintin trong hội kín ‘Sons of Heaven’, và bạn của ông, Trường, đại diện cho toàn thể nhân dân Trung Quốc khi đối mặt với cơn đại hồng thủy của chiến tranh, chủ nghĩa đế quốc phương Tây và người Nhật. Dù thế nào, cuốn sách đã làm hài lòng cả Quốc dân Đảng và ĐCSTQ, đặc biệt là khi liên minh mới chống Nhật của họ được thiết lập. Các sự kiện được rút ra trực tiếp từ những câu chuyện thời sự có thật: cuộc tấn công xe lửa nổi tiếng vào ngày 18 tháng Chín năm 1931, kích động cuộc xâm lược Mãn Châu của Nhật Bản, được thực hiện trong truyện tranh của bậc thầy gián điệp Mitsuhirato. Nhân vật này - “Một người Nhật chân chính biết mọi thứ đều đáng trân trọng, thưa ngài!” - được lấy cảm hứng từ Đại tá Doihara Kenji, cũng là người đứng đầu hội kín ngoài đời thực là ‘Black Dragon Sect’ (một con rồng đen có trên trang bìa của tập ‘The Blue Lotus’).

Dư luận vào giữa thập niên 1930 có thái độ thù địch với người Nhật, và nhiều cuốn sách được phát hành vào thời điểm đó đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cơ quan tuyên truyền của Quốc tế Cộng sản do Willi Münzenberg lãnh đạo. Trên thực tế, Brussels là trung tâm của các hoạt động này, vì chính tại đó, vào tháng Hai năm 1927, Münzenberg đã thành lập Liên đoàn chống chủ nghĩa đế quốc, do Albert Einstein chủ trì, với sự tham gia Hồ Chí Minh, Tống Khánh Linh và André Malraux – một nhân vật, như thường lệ, là người phát ngôn của Liên đoàn. Như chúng ta đã thấy, bà Tôn Dật Tiên, giống như chị em họ Cung, là một nhân vật quan trọng trong mạng lưới quốc tế đầy và các hoạt động điệp báo ảnh hưởng do Chu Ân Lai thành lập, và năm 1928 bà tham dự một cuộc họp khác Brussels của Liên đoàn chống Chủ nghĩa đế quốc, nơi một loạt những người tham dự nổi tiếng thể hiện sự ủng hộ của họ đối với chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc.

Trong số những người bạn của Tống Khánh Linh ở Bỉ có Lục Trung Tường, từng là thủ tướng dưới thời Tôn Trung Sơn. Năm 1926, sau khi vợ qua đời, Lục trở thành tu sĩ dòng Benedictine tại tu viện St André ở Bruges, lấy tên là Dom Pierre-Celestin Lou. Chính nhờ Lục, vào ngày 1 tháng Tám năm 1934, Hergé lần đầu tiên gặp Trương Sung Nhân, một sinh viên trẻ tại Học viện Mỹ thuật Hoàng gia ở Brussels. Trương Sung Nhân, người đã đến Brussels từ Thượng Hải ba năm trước đó, đã giúp ông vẽ minh họa cho tập truyện ‘Những cuộc phiêu lưu của Tintin ở Viễn Đông’ (tựa gốc là ‘Sen Xanh’), được đăng nhiều kỳ vào cuối năm đó trên tờ ‘Petit Vingtième’. Để giúp ông nghiên cứu, Dom Pierre-Celestin Lou đã cho Hergé mượn cuốn sách mà chính ông đã xuất bản năm trước, ‘Cuộc xâm lược và chiếm đóng Mãn Châu’.

Trương dường như không phải là một sinh viên cánh hữu hay có liên hệ nào với Quốc dân Đảng. Nhưng chúng ta biết rằng người bạn thân của ông ở Brussels, một sinh viên ngành sinh học tên là Đồng Đệ Chu đến từ Chiết Giang, đã tốt nghiệp Đại học Phúc Đán, do chú của Trương thành lập. Đồng thành lập Viện Hải dương học của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1950 và là viện trưởng đầu tiên của Viện. Sau đó, ông trở thành chủ tịch của Viện Hàn lâm Khoa học và nổi tiếng vào thập niên 1960 nhờ nhân bản cá chép. Ông đã trở thành một nhân vật quan trọng của chế độ theo sự chiêu dụ của Ban Công tác Mặt trận Thống nhất (UFWD), cơ quan mật vụ, mà chúng ta đã biết, đã thuyết phục một số lượng lớn các nhà khoa học quay lại Trung Quốc. Ông đã bí mật trở thành đảng viên của ĐCSTQ trong suốt thời gian ở Brussels, hay là mãi sau này mới vào Đảng? Dù thế nào, Đồng đã trở thành một trong những nhà khoa học cấp cao của chế độ cộng sản.

Tương tự như vậy, Trương, người bạn cũ của ông, tiếp tục gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa cộng sản, bất kể sau này ông muốn mọi người nghĩ gì. Sau chiến thắng của những người cộng sản, ông sẽ gặp Nguyên soái Trần Nghị, người chỉ huy quân đội chiếm Thượng Hải năm 1949. Cuộc trấn áp sau đó của các phần tử phản cách mạng trong thành phố là không thể tránh khỏi: 100.000 cư dân Thượng Hải bị hành quyết, trong đó có nhiều thành viên của các hiệp hội bí mật được đề cập đến trong ‘Sen Xanh’. Thủ lĩnh của Thanh Bang, Đỗ Nguyệt Sênh, đã bỏ trốn khỏi thành phố. Ông mất tại Hồng Kông năm 1951.

Trong khi đó, Trương được nhà cầm quyền cộng sản coi trọng. Vào thập niên 1950, Trần Nghị, lúc đó là thị trưởng Thượng Hải, đã tổ chức một ủy ban tuyển chọn nghệ sĩ để bảo trợ, chỉ định hai nhân vật quen thuộc: Phan Hán Niên, nhân viên mật vụ và là thân tín trước đây của Khang Sinh và Lý Khắc Nông; và bà Tôn Trung Sơn, lúc đó đang là phó chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa). Ủy ban đã chọn Trương là nghệ sĩ chính thức. Ông đã nhận được nhiều khoản tiền thù lao cho các tác phẩm điêu khắc và hội họa của mình, bao gồm một tác phẩm điêu khắc “sáu nhân vật: một công nhân, một nông dân, một người lính, một thanh niên, một phụ nữ dân tộc và một đứa trẻ, tất cả đứng cùng nhau chuẩn bị vận chuyển một khối lớn cờ mang quốc huy năm sao của CHND Trung Hoa. Tác phẩm điêu khắc tượng trưng cho sự hợp nhất của toàn thể nhân dân, đã mang lại sự thay đổi chính trị. Ý nghĩa của nó ngay lập tức có thể hiểu được; mọi thứ đều tập trung trong hình thức điêu khắc này”.

Sau đó, Trương kể lại rằng một số quan chức phàn nàn ông không có đủ “tư tưởng chính trị”, một yếu tố để Ủy ban lẽ ra phải lựa chọn một người khác. Nhưng vào thời điểm đó, ĐCSTQ tuyên bố rằng công việc của ông đang thúc đẩy “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Ông tiếp tục tạo ra những bức tượng mang tính tôn vinh như tượng của Thẩm Dụ Dân, một nữ anh hùng của ĐCSTQ ở Sơn Đông. ”Vào thời điểm đó, tôi được biết đến nhiều như một nhà điêu khắc. Năm 1954, tôi đã tạo một bức tượng của một nhà hoạt động cách mạng, một anh hùng của Chiến tranh Nhân dân, cho một cuộc triển lãm nghệ thuật điêu khắc của các nước xã hội chủ nghĩa ở Moscow, đây là tác phẩm duy nhất của Trung Quốc được chọn”. Nói cách khác, bất kể khoa học lý luận chính trị nào mà ông có thể đã nắm giữ vào giữa thập niên 1930, Trương ít nhất đã trở thành một thành viên quan trọng của CHND Trung Hoa, chính doanh hóa các lý tưởng của nó thông qua mĩ thuật.

Năm 1966, ông trở thành nạn nhân trong hoàn cảnh đầy khó khăn của nhiều nghệ sĩ trong thời kỳ hỗn loạn của Cách mạng Văn hóa. Điều này không phải vì ông thù địch với chế độ, mà vì người bảo vệ của ông là Trần Nghị, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, là người đầu tiên bị Bè Lũ Bốn Tên đàn áp; ngay cả tình bạn của ông với Chu Ân Lai cũng không bảo vệ được ông. Chỉ với những cải cách chính trị của Đặng Tiểu Bình từ năm 1981, Trương mới được phục hồi. Lúc này Hergé - người đã biến Trương đã trở thành anh hùng của Tintin ở Tây Tạng, đã cố gắng tìm lại người bạn cũ của mình. Tiểu thuyết gia Hàn Tố Âm, người viết tiểu sử và là bạn của Chu Ân Lai, đã giúp Hergé tìm Trương và thuyết phục Đặng Tiểu Bình - một người bạn Khách Gia - cho phép Trương đến thăm Bỉ. Một cuộc hội ngộ xúc động đã diễn ra tại Brussels. Những người yêu thích Tintin đã rất vui mừng. ĐCSTQ cũng rất vui mừng; những câu chuyện về “Ding Ding”, như tên phóng viên xui xẻo được gọi trong các ấn bản tiếng Trung, đã quảng bá chính khẩu hiệu mà Trương đã chủ trương: “Hãy sử dụng những người thợ rèn để phục vụ Trung Quốc!”; ”Sử dụng sức mạnh nước ngoài để tuyên truyền cho Trung Quốc!”. Chính bối cảnh “tương lai” này — sự gần gũi của Trương với cả Hergé và chế độ cộng sản — nói lên được nhiều điều hơn, khi chúng ta xem xét các ý tưởng chính trị trong ‘Sen Xanh’ 

(còn tiếp) 

  • ĐỌC THÊM
popup

Số lượng:

Tổng tiền: