CHIẾN DỊCH NĂM 1979

13/ 02/ 2023

 CHIẾN DỊCH NĂM 1979

 

Edward C. O’Dowd

 

Nguyễn Trung Kiên dịch (Kỳ 1)

 

Ngày nay, Trung Quốc tuyên bố rằng cuộc xâm nhập vào Việt Nam trong năm 1979 của họ là một hoạt động phòng thủ nhỏ do vài nghìn lính biên phòng tiến hành - những người nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu và rút quân.

 

Điều này là không đúng sự thật. Chiến dịch năm 1979 là một hoạt động quân sự khổng lồ liên quan đến mười một sư đoàn chính quy của Trung Quốc thuộc các lực lượng lục quân, hải quân và không quân, tổng cộng ít nhất 450.000 quân. Khác xa với một cuộc tấn công nhỏ xuyên biên giới, nó có quy mô tương tự như cuộc tấn công mà Trung Quốc đã tiến hành trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên vào tháng 11 năm 1950. Hơn nữa, các hoạt động chiến tranh không theo quy ước xảy ra trong cùng năm 1979 đã được mở rộng ra các khu vực vượt ra vùng biên giới Trung-Việt.

 

Cuộc xâm lược của Trung Quốc trong năm 1979 trên thực tế là một chiến dịch lớn của một cuộc chiến tranh kéo dài hơn một thập kỷ, từ cuối thập niên 1970 cho đến khi mức độ bạo lực trong các cuộc xung đột Trung-Việt và Việt-Campuchia cuối cùng đã giảm xuống vào cuối thập niên 1980 và các bên tham chiến đã thực hiện những bước đầu tiên để bình thường hóa quan hệ. Chương này đề cập đến cuộc xâm lược của Trung Quốc trên chiến trường thực địa, trong bối cảnh của Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba.

 

Để mở đầu, một sự điểm qua về con số thương vong là quan trọng. Các số liệu thương vong cho chiến dịch năm 1979 rất khác nhau và hầu như không có giá trị. Vào tháng 4 năm 1979, Tạp chí ‘Quân đội Nhân dân’, một tạp chí chính thức của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), ước tính rằng Trung Quốc đã mất 62.500 binh sĩ trong cuộc giao tranh này. Một tháng sau, Phó Tổng Tham mưu trưởng Trung Quốc, Ngũ Tu Quyền, đã thừa nhận Trung Quốc hi sinh 20.000 quân. Harlan W. Jencks, một nhà nghiên cứu phương Tây sắc sảo nhất về cuộc xung đột này, đã chấp nhận ước tính sau này trong một bài báo tháng 8 năm 1979, xác định mức độ tổn thất là một nửa người chết và một nửa người bị thương, nhưng vào năm 1985, ông đã sửa đổi ước tính của mình lên thành con số lớn hơn nhiều với 28.000 lính Trung Quốc thiệt mạng trong chiến dịch này. Các ước tính về thiệt hại của Việt Nam cũng đa dạng như nhau. Ngũ Tu Quyền đã tuyên bố có tới 50.000 lính Việt Nam thương vong.

 

Không thể đưa ra kết luận đáng tin cậy từ những bằng chứng đa dạng và mâu thuẫn như vậy, nhưng con số thương vong trong mọi trường hợp không phải là thước đo hiệu quả quân sự tốt nhất, ngay cả trong một chiến dịch tiêu hao sinh lực như thế này. Lịch sử có đầy đủ các ví dụ về các đơn vị quân đội hiệu quả có tỷ lệ thương vong cao và các đơn vị hoạt động kém hiệu quả có tỷ liệu thương vong tương đương: đo lường hiệu suất quân sự bằng cách trích dẫn các số liệu thương vong, ngay cả khi số liệu thống kê đáng tin cậy, kết quả là không hữu ích bằng việc đánh giá cách một đơn vị thực hiện trên chiến trường. Hiệu quả quân sự được đo lường tốt nhất bằng cách đánh giá tốc độ và hiệu quả mà một đơn vị quân đội thể hiện trong việc hoàn thành nhiệm vụ: đơn vị quân đội đó có sử dụng hiệu quả khối lượng quân của mình để vượt qua sự kháng cự không? Nó có đạt được mục tiêu trong một khoảng thời gian hợp lý không? Chiến thuật của đơn vị có đóng góp tích cực vào hiệu quả hay là trở ngại?

 

Như chúng ta sẽ thấy, nhìn theo những thuật ngữ này, thành tích của Quân Giải phóng Trung Quốc (PLA) trong chiến dịch năm 1979 rất kém. Trung Quốc đã lên kế hoạch cho “trận chiến quyết định nhanh chóng” (sujue zhan) nhưng lại tiến hành một loạt các hoạt động chậm chạp, thiếu quyết đoán. Tại khu vực Lạng Sơn, một trung đoàn Việt Nam đã cầm chân hai sư đoàn Trung Quốc trong một tuần, và một quân đội khác của Trung Quốc cần tới mười ngày để bảo vệ Lào Cai và Cam Đường, một cặp thị trấn nằm cách biên giới chưa đầy 15 km. PLA gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ Cao Bằng đến mức phải điều ít nhất hai quân đoàn đến một cuộc tấn công mới vào thành phố mà họ tuyên bố đã chiếm giữ, và ở Quảng Ninh, một trung đội Việt Nam đã chỉ mất 5 giờ để hạ một trung đoàn Trung Quốc. Núi Cao Ba Lanh, khiến trung đoàn Trung Quốc thiệt hại 360 trong tổng số 2.800 quân của họ. Những tổn thất như vậy, lặp đi lặp lại trên khắp chiến trường, thật đáng buồn và ít được nhắc đến. PLA tỏ ra không có khả năng sử dụng số lượng quân của mình một cách hiệu quả thông qua việc sử dụng các chiến thuật phù hợp, và do đó không có khả năng đạt được nhịp độ hoạt động có thể chuyển thành “các trận chiến quyết định nhanh chóng”.

 

CHIẾN TRƯỜNG: ĐỊA LÝ VÀ ĐỊA HÌNH

 

Địa lý của miền Bắc Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong chiến dịch năm 1979. Nhà địa lý Việt Nam Lê Bá Thảo chia Bắc Bộ thành hai thực thể địa lý riêng biệt là Tây Bắc và Đông Bắc dựa trên kỷ địa chất, tính chất địa hình, mật độ và kiểu thực vật. Thảo giả thiết một đường phân cách giữa các khu vực này chạy dọc theo dòng chảy của sông Hồng. Khu vực phía Nam và Tây sông Hồng, bao gồm các tỉnh biên giới Lai Châu và Hoàng Liên Sơn, có nhiều đồi núi, rừng rậm. Ngọn núi cao nhất Việt Nam, Phan-xi-păng (3.143 mét), nằm trong khu vực này, và việc đi lại ở đây nhìn chung rất khó khăn do độ cao của đất và độ dốc của sườn núi. Về phía Bắc và Đông sông Hồng vào năm 1979 là vùng biên giới bao gồm một số huyện hành chính của tỉnh Hoàng Liên Sơn và các tỉnh Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh trên Vịnh Bắc Bộ. Vùng Đông Bắc là vùng đất đồi núi thấp. Mặc dù ít rừng rậm hơn phía Tây Bắc, hưng việc đi lại rất khó khăn do có vô số thành tạo đá vôi đặc trưng cho địa hình và định hình việc sử dụng đất.

 

QĐNDVN đã tổ chức các bộ chỉ huy quân sự của mình tại hai tỉnh phía Bắc để phù hợp với thực tế địa lý này. Việc phân giới khu vực đưa các tỉnh biên giới như Lạng Sơn và Cao Bằng thuộc Quân khu 1 và Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn và Lai Châu thuộc Quân khu 2. Tỉnh Quảng Ninh được chỉ định là một vùng đặc biệt, riêng biệt vì lý do quốc phòng. Việt Nam chưa bao giờ giải thích lý do đằng sau việc phân chia ranh giới này, nhưng lý do rất có thể cho việc cấu trúc hai quân khu nằm trong những thách thức khác nhau mà họ sẽ đưa ra nếu các chỉ huy của họ được kêu gọi bảo vệ Hà Nội trước cuộc tấn công từ phía Bắc. Cây cối thưa thớt và đồi núi thấp của Quân khu 1 sẽ cho phép các lực lượng được di chuyển và tập trung tương đối dễ dàng - chắc chắn là khi so sánh với địa hình khắc nghiệt và rừng rậm của Quân khu 2. Về mặt phòng thủ, khoảng cách từ biên giới đến Hà Nội cũng rất ngắn: Lạng Sơn, thành phố trọng điểm của Quân khu 1, cách thủ đô 154 km, và Cao Bằng cách Hà Nội 276 km. Thành phố chính của Quân khu 2, Lào Cai, cách Hà Nội 295 km. Tuy nhiên, trong khi được giao nhiệm vụ bảo vệ một mặt trận ở vùng đất thấp hơn, Tư lệnh Quân khu 1 sẽ được hỗ trợ trong việc phòng thủ này bởi địa lý của khu vực và cơ sở hạ tầng nhân tạo của nó. Quốc lộ 1A từ Lạng Sơn và quốc lộ 3 từ Cao Bằng băng qua sông Cầu, tuyến phòng thủ tự nhiên của Hà Nội, kết nối tại Yên Viên trước khi vượt sông Hồng và vào Hà Nội, phân luồng hiệu quả cho bất kỳ kẻ xâm lược nào về một điểm tấn công duy nhất vào thành phố. Ngược lại, các con đường từ hai thành phố chính ở Tây Bắc bị núi giới hạn thành những thung lũng sông tách biệt và xa xôi, buộc Quân khu 2 phải phòng thủ trước khả năng tấn công của hai mũi giáp công vào Hà Nội.

 

Địa lý cũng giúp dự báo kế hoạch xâm lược của Trung Quốc. Các tỉnh biên giới Trung Quốc, Vân Nam ở phía Tây và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây ở phía Đông, có sự khác biệt về địa lý. Vân Nam nằm trên Cao nguyên Vân Nam nhiều đồi núi, xa xôi và khó tiếp cận từ trung tâm của Trung Quốc, trong khi Quảng Tây là một khu vực núi thấp và đồng bằng châu thổ sông nên dễ dàng hơn cho việc chuyển quân. Cũng giống như cách Việt Nam nhận ra ý nghĩa quân sự về địa lý của các khu vực biên giới của mình, Trung Quốc đã giao lực lượng tại các khu vực biên giới tương ứng của mình cho hai bộ chỉ huy khác nhau, Quân khu Vân Nam thuộc Quân khu Côn Minh và Quân khu Quảng Tây thuộc Quân khu Quảng Châu. Đường ranh giới cấp tỉnh và cấp quân khu chạy từ khoảng nơi hai tỉnh Hà Tuyên và Cao Bằng gặp nhau ở phía biên giới Việt Nam. Địa hình khác nhau của hai khu vực cũng định hình đáng kể mạng lưới đường sắt và đường bộ. Tuyến đường sắt, vốn rất quan trọng để tiếp tế cho các lực lượng xâm lược Trung Quốc, có một đoạn ngắn, chạy thẳng từ phía Đông của Trung Quốc, nơi đóng quân của phần lớn lực lượng xâm lược. Để so sánh, tuyến đường sắt từ trung tâm của Trung Quốc đến Côn Minh và từ Côn Minh đến Lào Cai có một tuyến đường dài, xuyên suốt qua những ngọn đồi dốc và thung lũng hẹp. Các đường cao tốc đến Côn Minh cũng bị hạn chế tương tự.

 

Trung Quốc đã chọn thực hiện các cuộc tấn công mạnh nhất vào năm 1979 nhằm vào

các thành phố thuộc Quân khu 1 của Việt Nam: Cao Bằng và Lạng Sơn. Một cuộc tấn công lớn xa hơn về phía Tây được coi là quá nguy hiểm, bởi vì các thung lũng sông dài và hẹp của khu vực là một trở ngại cho việc tiếp tế cho các lực lượng tấn công và những khó khăn mà các đơn vị tấn công sẽ gặp phải trong việc hỗ trợ lẫn nhau. Ngược lại, tấn công qua Quân khu 1, Trung Quốc có thể đe dọa Hà Nội bằng một con đường tương đối ngắn, và những ngọn đồi thấp và cây cối ít rậm rạp hơn sẽ cho phép chuyển quân và tiếp tế qua lại dễ dàng hơn. Tất nhiên, đây không phải là một kế hoạch tấn công mới. Năm 1077, 1288 và 1427, quân Trung Quốc đã tấn công qua cùng một khu vực này. Trong mỗi dịp, họ đều phải nếm trải sự thất bại.

 

TRIỂN KHAI BINH LÍNH

 

Trong khi các nhà ngoại giao và lãnh đạo đảng của Trung Quốc và Việt Nam đang cân nhắc, đàm phán và cân nhắc vào những tháng giữa năm 1978, thì binh lính của cả hai bên đang chuẩn bị cho chiến tranh.

 

Vào giữa tháng 7, Sư đoàn 3 của QĐNDVN di chuyển đến Lạng Sơn và bắt đầu tổ chức

phòng thủ. Sư đoàn 3 được thành lập vào đầu thập niên 1960 trong cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai chống Mỹ, khi đó là một trở ngại cho việc “bình định” các tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi ở Nam Việt Nam. Các sĩ quan và nhân viên của nó là những người lính dày dạn kinh nghiệm, và nhiều người trong số họ, nhờ tham gia vào các cuộc tấn công lớn của Bắc Việt Nam năm 1972 và 1975, đã có kinh nghiệm trong các chiến dịch quy mô lớn. Sư đoàn nhanh chóng được Trung đoàn pháo binh 166 và Trung đoàn phòng không 272 bài binh bố trận tại Lạng Sơn. Tháng 8, Sư đoàn vận tải 571 bắt đầu cử những đoàn xe vận tải lớn tiếp tế cho Quân khu 1 và Quân khu 2, và suốt nửa cuối năm 1978, nhiên liệu, bộ đội, đạn dược tiếp tục được chuyển lên phía Bắc theo quốc lộ 1 đến Lạng Sơn. Pháo phòng không được bố trí tại các vị trí trọng yếu dọc biên giới, và các đội quân đóng tại các làng dọc theo Quốc lộ 4 giữa Đình Lập và Lạng Sơn. Các nam thanh niên Việt Nam sống ở khu vực biên giới cũng được huấn luyện các kỹ năng quân sự cơ bản. Vào tháng 11, xe tăng Việt Nam đã được quan sát thấy gần đèo Hữu nghị, nơi Quốc lộ 1A băng qua biên giới tại Đồng Đăng.

 

Đầu tháng 2 năm 1979, Sư đoàn 346 và Sư đoàn 311 tập kết tại Cao Bằng, nơi chúng được nhập vào các trung đoàn 567 và 852. Cuối năm 1978 hoặc những tuần đầu năm 1979, Sư đoàn 316A và Trung đoàn 254 triển khai đến khu vực Lào Cai, nơi theo các nhà phân tích tình báo Mỹ, các đơn vị cũng được cùng chiến đấu với Sư đoàn 345.

 

Không có dấu hiệu nào cho thấy Việt Nam sẽ triển khai không quân hoặc hải quân trong những tuần trước cuộc xâm lược.

 

Các cuộc triển khai của Trung Quốc đến biên giới bắt đầu muộn hơn so với việc triển khai quân của QĐNDVN, nhưng với quy mô lớn hơn nhiều, với khoảng ba mươi sư đoàn vào tháng 2 năm 1979. Các đội quân của Quân khu Côn Minh và Quân khu Quảng Châu là những đơn vị đầu tiên chiếm các vị trí gần biên giới, với Quân đoàn 55 và Quân đoàn 42 của Quân khu Quảng Châu triển khai vào tháng 10 và Quân đoàn 41 vào tháng 11. Các đơn vị từ bên ngoài Quảng Châu và Côn Minh di chuyển bằng đường bộ và đường sắt trong suốt tháng 11 năm 1978 đến tháng 2 năm 1979. Một số đến từ khoảng cách xa: Ví dụ như Quân đoàn 20 đã di chuyển 1.200 km từ các căn cứ của mình trong Quân khu Vũ Hán. Những khách du lịch ở xa đến tận miền Trung Trung Quốc đã nhìn thấy những chuyến tàu với thiết bị quân sự đi về phía Nam và báo cáo rằng một số phần của mạng lưới đường bộ và đường sắt đã bị cấm đối với du khách nước ngoài. Một trong những đơn vị cuối cùng nhận nhiệm vụ là Quân đoàn 13, thuộc Quân khu Thành Đô. Ngày 13 triển khai dọc biên giới đối diện Lào Cai vào tháng 1 hoặc tháng 2 năm 1979.

 

Người Trung Quốc đã cố gắng hết sức để che giấu các cuộc chuyển quân này. Giao thông đường sắt và đường bộ di chuyển vào ban đêm, khi các đoàn tàu dân sự được di chuyển ra khỏi đường ray chính để các đoàn tàu chở quân đi qua. Lệnh giới nghiêm đã được áp dụng đối với các thị trấn và làng mạc dọc theo tuyến đường của cuộc hành quân, và trong ngày, quân đội nghỉ ngơi tại các khu vực được che chắn khỏi tầm mắt của người dân địa phương. Phần lớn Trung Quốc bị đóng cửa đối với người nước ngoài vào năm 1978 và 1979, nhưng một số thành phố đã được mở cửa: những nơi này nằm trong các khu vực nhạy cảm, họ lại tạm thời đóng cửa. Nhiều du khách quay trở lại Hồng Kông với những câu chuyện về kế hoạch du lịch bị gián đoạn và những diễn biến kỳ lạ trên các tuyến đường dẫn đến biên giới Trung-Việt.

 

Các cuộc triển khai của lực lượng không quân Trung Quốc (PLAAF) được tiến hành cùng lúc. Khoảng ngày 1 tháng 1 năm 1979, PLAAF bắt đầu công tác chuẩn bị chiến tranh ở Quảng Tây và Vân Nam, tổ chức lại cơ cấu chỉ huy của mình tại Quân khu Quảng Châu và Quân khu Côn Minh, chuẩn bị các sân bay và triển khai vũ khí phòng không. Công tác chính trị giữa các nhân viên không quân cũng tăng cường. Ít nhất 700 máy bay đã được đưa đến khu vực này, nâng mức triển khai ở hai quân khu lên từ 800 đến 1.000 máy bay, và hơn 20.000 binh sĩ không quân đã được điều đến. Để đáp ứng lượng thiết bị và nhân viên khổng lồ này, các nhà hậu cần của PLAAF đã xây dựng hơn 43.000 mét vuông lán tre và sửa chữa 23.000 mét vuông nhà cũ. Họ đã phát cho quân sĩ 10.000 chiếc giường di động và đặt 200 km cáp điện, hơn ba mươi hai km đường ống dẫn nước, và năm mươi km đường ống dẫn nhiên liệu bán vĩnh cửu cho ba sân bay riêng biệt.

 

Ở Biển Đông, Hạm đội Nam Hải của Hải quân Trung Quốc (PLAN), đóng trụ sở tại Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, đã chuẩn bị cho trận chiến bằng cách tổ chức một lực lượng đặc nhiệm mới bao gồm một số chiến binh mạnh nhất của lực lượng này. Các khinh hạm lớp Chengdu Guiyang (cờ hiệu 505) và Chengdu (507) được triển khai cùng với một tàu chiến thứ ba, mang cờ hiệu 48, như một phần của Hệ thống 217 (217 biandui). Hệ tầng 217 dường như đã hoạt động với các tàu của các Nhóm 1, 21 và 91 (dadui). Phi đội 207 (dadui), một thành phần của Nhóm 21, cũng đang hoạt động trong các hoạt động của Đội 217. Các thủy thủ và sĩ quan hải quân của PLA đã chuẩn bị cho chiến tranh bằng việc học chính trị, bằng cách thực hiện công việc bảo dưỡng, và các bài tập huấn luyện, và khi Đội hình 217 lần đầu tiên được tổ chức, tiêu chuẩn của đội tàu ngầm rất thấp. Ít hơn 20% quả đạn do các tổ lái pháo trên tàu 48 bắn trúng mục tiêu, và các tàu của đội hình hoạt động kém hiệu quả với nhau: trong ít nhất một trường hợp được ghi lại, một nhân viên báo hiệu đã gửi sai tín hiệu, khiến đội hình trở nên bối rối. Những vấn đề này không làm tăng thêm khả năng cho các cuộc chiến sắp tới.

 

VẤN ĐỀ LÃNH ĐẠO VÀ TỔ CHỨC CHỈ HUY

 

Đến giữa tháng 12 năm 1978, sở chỉ huy tiền phương của Quân khu Quảng Châu được thành lập, và Bộ Chính trị Tổng hành dinh (Guangzhou junqu qianzhi zhengzhibu) đang cung cấp hướng dẫn cho các đơn vị trực thuộc về những vấn đề nảy sinh khi tiếp tục chuẩn bị cho chiến tranh. Nhưng các sĩ quan chính trị của các đơn vị PLA đang triển khai phải đối mặt với những vấn đề to lớn trong việc sẵn sàng chiến đấu cho quân đội của họ.

 

Ngày 12/12, Tổng cục Chính trị QGPTH đã ban hành một thông tư mật tới các đơn vị. ”Chỉ thị của Tổng cục Chính trị về công tác chính trị do các đơn vị bộ đội tiến hành trong các hoạt động quân sự” nêu rõ các đơn vị cần nỗ lực ngay để kiện toàn hệ thống cán bộ đơn vị và cần bổ sung đầy đủ cán bộ ở các đại đội và trung đội. Trong một điện tín tới các đơn vị trực thuộc cùng ngày, Cục Cán bộ (GDP) thuộc Tổng cục Chính trị đã khuyến cáo những cá nhân dự kiến xuất ngũ có thể được giữ lại nếu cần đảm nhận nhiệm vụ cụ thể, nhưng cũng khuyến cáo thêm rằng những đơn vị nào thiếu cán bộ cơ bản vì họ đã được thành lập gần đây hoặc đã được tổ chức lại, có thể bắt đầu hoạt động khi tình hình bắt buộc phải làm như vậy. Hai ngày sau, GPD nhắc lại rằng các vị trí cán bộ cần được lấp đầy càng nhanh càng tốt và hướng dẫn tất cả các đơn vị đã triển khai tiếp tục có vấn đề phải thông báo cho GPD. GDP khuyến cáo rằng nó sẽ có được sự thay thế bằng cách thực hiện một cuộc tìm kiếm trên toàn quân (quan jun). PLA, trước khi nổ phát súng đầu tiên, đã gặp khó khăn trong việc bố trí đầy đủ các vị trí lãnh đạo quan trọng ở cấp đại đội và trung đội.

 

Một vấn đề tương tự cũng tồn tại trong lĩnh vực vị trí kỹ thuật. Vào ngày 12 tháng 12, Cục Chính trị Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân khu Quảng Châu và Cục Hậu cần đã ban hành hướng dẫn về chính sách cần tuân thủ trong việc tuyển dụng các công việc kỹ thuật trong pháo binh, công binh, thông tin liên lạc, thiết giáp, chống chiến tranh hóa học và “mật mã” (jiyao) các đơn vị. Như trong trường hợp tuyển dụng cán bộ, các đơn vị được thông báo rằng họ có thể giữ lại các chuyên gia dự kiến xuất ngũ nếu các chuyên gia đó đồng ý phục vụ. Nhân viên y tế ở tất cả các cấp của hệ thống bệnh viện cũng có thể được giữ lại.

 

Trung Quốc chính thức phát động chiến dịch biên giới vào ngày cuối cùng của năm 1978. Mặc dù nhà nghiên cứu King Chen, trong một nghiên cứu kỹ lưỡng nhất về việc ra quyết định của Trung Quốc trước chiến tranh, tuyên bố rằng quyết định cuối cùng về việc gây chiến với Việt Nam là do Quân ủy Trung ương từ ngày 9 đến 12 tháng 2 năm 1979, quyết định phát động chiến dịch trên thực tế đã được đưa ra từ trước đó rất lâu. Vào tháng 2, Quân ủy Trung ương đã xem xét các kế hoạch cho cuộc xâm lược và xem xét các tác động của chuyến đi gần đây của Đặng Tiểu Bình đến Hoa Kỳ, nhưng Bộ Chính trị Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân khu Quảng Châu đã thông báo cho các đơn vị trực thuộc vào ngày 28 tháng 12 rằng họ sẽ ghi nhận phục vụ chiến đấu từ ngày 31/12/1978.

 

Ở phía biên giới Trung Quốc, các đơn vị PLA tiếp tục triển khai đến các khu vực tập kết của họ, và ở Việt Nam, QĐNDVN đã đào một loạt công sự dài vô tận. Ở cả hai bên, các nhân viên cấp cao đã làm việc để biến quân đội thời bình thành quân đội thời chiến. Các sĩ quan tham mưu và các quan chức đảng đã tổ chức lại các sắp xếp chỉ huy và kiểm soát của họ và lập kế hoạch cho các hoạt động sắp tới.

 

Vào cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 1, Trung Quốc thành lập Mặt trận phía Nam để liên kết các hoạt động tại Quân khu Côn Minh và Quân khu Quảng Châu. Tư lệnh Quân khu Quảng Châu, Hứa Thế Hữu, đảm nhận quyền chỉ huy mặt trận, với Trương Đình Phát, Tư lệnh Lực lượng Không quân, làm Tham mưu trưởng. Dương Đắc Chí chuyển từ Tư lệnh Quân khu Vũ Hán sang nắm quyền kiểm soát Quân khu Côn Minh và giữ chức Phó Tư lệnh Phương diện quân Nam. Theo báo chí, Dương cũng từng là chỉ huy của tất cả quân đội Trung Quốc tại Việt Nam. Hướng Trung Hoa và Lưu Chí Kiên vẫn giữ vai trò chính ủy Quân khu Quảng Châu và Quân khu Côn Minh. Vương Hải, Tư lệnh Lực lượng Không quân Quân khu Quảng Châu, được bổ nhiệm làm chỉ huy các hoạt động không quân tại Quân khu Quảng Tây và Hầu Thậu Quân, Giám đốc Bộ tư lệnh Lực lượng Không quân Quân khu Côn Minh, trở thành Tư lệnh không quân đồng cấp với Vương tại Quân khu Vân Nam.

 

Ở đầu kia của đất nước, Mặt trận phía Bắc đồng thời được thành lập để đối đầu với Liên Xô. Bao gồm các quân khu Tân Cương, Lan Châu, Bắc Kinh và Thẩm Dương, Phương diện quân phía Bắc do Lý Đức Sinh, Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương chỉ huy. Các quân khu phía Bắc, mặc dù có quân số tập trung đông nhất của PLA, nhưng vẫn phải giữ vững lực lượng và không đóng góp gì cho chiến dịch ở phía Nam.

 

Mục đích dự kiến của việc thành lập Phương diện quân phía Nam là tạo ra một tổ chức duy nhất, báo cáo trực tiếp cho trụ sở PLA ở Bắc Kinh, nơi kiểm soát tất cả các khí tài trên bộ và trên không của PLA tại Quân khu Côn Minh và Quân khu Quảng Châu. Mặt trận bao gồm hai quân khu: Quảng Tây ở phía Đông, cùng với Quân khu Quảng Tây thuoocj Quân khu Quảng Châu, và Vân Nam ở phía Tây, cùng với Quân khu Vân Nam thuoocj Quân khu Côn Minh. Trong cả hai trường hợp, các quân khu hoạt động theo ranh giới của tỉnh tương ứng.

 

Mối quan hệ chỉ huy ở phía Việt Nam cũng đơn giản như vậy. Quân khu Một, bao gồm các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, được chỉ định là khu vực Cao-Lạng, và hai mặt trận được thành lập trong đó. Tháng 2 năm 1979, Mặt trận Cao Bằng được thành lập để kiểm soát các hoạt động ở phía Tây Bắc của Quân khu 1, trong đó Mặt trận Lạng Sơn cũng thực hiện vai trò tương tự ở phần phía Đông của khu vực. Quy trình cũng giống như ở Quân khu 2, nơi mà khu hành quân Phong Thổ - Lào Cai được thành lập với một mặt trận duy nhất là Mặt trận Lào Cai. Khu vực biên giới duy nhất ban đầu không bao gồm một hoặc nhiều mặt trận trực thuộc một quân khu là tỉnh ven biển Quảng Ninh, nhưng tình hình này đã được giải quyết vào tháng 3 khi Bộ Quốc phòng thành lập Mặt trận Quảng Ninh tại Đặc khu Quảng Ninh.

 

Bộ Chỉ huy quân sự của QĐNDVN do Thượng tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng từ năm 1944. Thượng tướng Văn Tiến Dũng làm Tổng Tham mưu trưởng và Thượng tướng Chu Huy Mân làm Tổng cục trưởng Bộ Quốc phòng. Thiếu tướng Đàm Quang Trung làm Tư lệnh Quân khu thứ nhất kiêm Chính ủy và Trung tướng Vũ Lập là người đồng cấp tại Quân khu 2.

 

CÁC BƯỚC CHUẨN BỊ CUỐI CÙNG

 

Vào tháng 10 năm 1978, PLA bắt đầu một loạt các cuộc thăm dò các vị trí chiến lược của Việt Nam cho đến ngày 15 tháng 2 năm 1979. Trung Quốc dự định cho các hoạt động này để thu thập thông tin tình báo, để uy hiếp quân đội QĐNDVN và chuyển hướng chú ý khỏi mục tiêu hoạt động chính của Trung Quốc sắp tới chiến dịch. Các cuộc thăm dò đầu tiên được thực hiện tại các khu vực mà PLA sau đó sẽ di chuyển trong cuộc xâm lược ngày 17 tháng 2. Các mục tiêu cơ bản chính của cuộc xâm lược là ở các tỉnh Hoàng Liên Sơn, Cao Bằng và Lạng Sơn, và chín trong số mười cuộc thăm dò đầu tiên được tiến hành chống lại lực lượng QĐNDVN tại các tỉnh này. Trong số chín cuộc tấn công, tám cuộc được thực hiện ở các huyện nằm trên các tuyến đường tiếp cận cho cuộc xâm lược. Lai Châu và Hà Tuyên, hai tỉnh biên giới Việt Nam chỉ hứng chịu các cuộc tấn công nhỏ hoặc vài vụ quấy rối vào tháng 2. Các cuộc tấn công được xây dựng về quy mô và tần suất khi nhiều đơn vị PLA triển khai dọc biên giới, phản ánh nhu cầu ngày càng tăng của chỉ huy địa phương để biết thông tin cho các hoạt động chiến trường của chính họ. Các tàu thăm dò đặc biệt tìm cách xác định các vị trí của đối phương, thông qua phân tích phản ứng của QĐNDVN trước các cuộc tấn công trên bộ, và pháo binh.

 

Không có tài liệu nào về các cuộc thăm dò của Việt Nam về các vị trí của Trung Quốc, nhưng gần như chắc chắn rằng người Việt Nam ít nhất đã tiến hành do thám địa hình và sự bồi đắp của Trung Quốc: biên giới cực kỳ mềm dẻo và các lực lượng tuần tra, mật vụ và những người khác có thể vượt qua. Cho dù Việt Nam có tiến hành tuần tra hay không, thì việc các tàu thăm dò của Trung Quốc quy mô lớn, có tổ chức tốt, và bạo lực đã báo hiệu rõ ràng cho Việt Nam về mức độ lớn mạnh của lực lượng dàn trận chống lại họ.

 

Đến sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, Việt Nam có khoảng 15 trung đoàn chiến đấu do 5 sư đoàn chính quy trên Mặt trận Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn kiểm soát. Lực lượng dân quân và một số nhỏ các đơn vị biên phòng đã hỗ trợ cho việc phòng thủ, tạo ra một lực lượng tổng cộng khoảng 50.000 người. Bị dàn trận chống lại quân phòng thủ, dưới sự chỉ đạo của Phương diện quân phía Nam, Trung Quốc có hơn một trăm trung đoàn chiến đấu, tổng cộng khoảng 450.000 quân. Tương quan lực lượng ít nhất là sáu ăn một, và trong một số lĩnh vực, nó còn cao hơn nhiều. Ở khu vực xung quanh Lạng Sơn, cán cân lực lượng nghiêng về phía Trung Quốc theo tỷ lệ ít nhất là mười ăn một.

 

Cả Việt Nam và Trung Quốc đều chưa từng công bố một lời giải thích rõ ràng nào về kế hoạch tác chiến của mình cho chiến dịch năm 1979, nhưng có thể thấy rõ điều gì đó trong số những kế hoạch đó thông qua việc phân tích các vị trí và cách triển khai của các lực lượng đối lập. Toàn cảnh được phân tích theo hướng như vậy tạo ra đôi khi trái ngược với toàn cảnh mà hầu hết các nhà nghiên cứu hiểu chiến dịch này; đặc biệt, nó đặt ra câu hỏi quan trọng về số lượng các cuộc tấn công mà Trung Quốc thực hiện vào các tỉnh lỵ của Việt Nam. Ví dụ, King C. Chen tuyên bố rằng Trung Quốc đã tấn công năm tỉnh lỵ trong chiến dịch năm 1979: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng và Lạng Sơn. Tuy nhiên, Trung Quốc và Việt Nam đồng ý rằng không có cuộc tấn công nào vào Hà Giang và Lai Châu. Phân tích kỹ lưỡng về cuộc chiến đấu sẽ biến chiến dịch thành một cuộc chiến đấu trên ba mặt trận đã được xác định trước đó trong chương này: Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai. Vào rạng sáng ngày 17 tháng 2, chiến dịch bắt đầu trên ba mặt trận này.

 

MẶT TRẬN LẠNG SƠN

 

Cuộc tấn công của Trung Quốc vào Lạng Sơn đến muộn hơn một chút so với các cuộc tấn công vào Cao Bằng và Lào Cai, các khẩu pháo của Quân đoàn 55 mở vào khoảng 5h sáng nhằm vào quân phòng thủ Việt Nam tại khu vực đèo Hữu nghị, giữa mốc biên giới 15 và 20. Phía sau trận đánh, Binh đoàn 55 đã sẵn sàng tiến ngược lại mục tiêu ban đầu là thị trấn Đồng Đăng. Về phía Đông Nam, giữa các mốc biên giới 32 và 45, Binh đoàn 43 đã nã đạn vào bộ đội biên phòng Việt Nam trên các ngọn đồi xung quanh thị trấn Chi Ma. Lộ trình của đoàn 43 qua Chi Ma qua địa phương lộ 402 đến Lộc Bình, khoảng mười cây số về hướng Tây Nam. Từ Lộc Bình, đường 43 sẽ bám theo hướng Tây Bắc theo Quốc lộ 4B đến mục tiêu cuối cùng là Lạng Sơn.

 

Quân đoàn 55 và Quân đoàn 43 cùng với Quân đoàn 54 xuất trận trong trạng thái chủ động, do đó sẽ tấn công Lạng Sơn từ hai hướng. Vượt Đồng Đăng, Quân đoàn 55 tiến tới Lạng Sơn (kéo dài 17 km theo quốc lộ 1A); từ Lộc Bình, đường 43 (kéo dài 19 km theo quốc lộ 4B). Chiến lược của Trung Quốc là cho hai đạo quân của họ tiến lên phía Tây Nam Lạng Sơn, cô lập Sư đoàn 3 của Việt Nam và buộc lực lượng này đầu hàng hoặc tiêu diệt. Việc sớm chiếm được Lạng Sơn, cách Hà Nội khoảng 150 km, sẽ cho phép Trung Quốc sử dụng tuyến đường sắt từ biên giới và một trong những đường cao tốc tốt nhất ở Việt Nam, Quốc lộ 1A. Thủ đô của Việt Nam sẽ bị để ngỏ để tấn công. Nếu Bắc Kinh tiến đánh Hà Nội, thì Lạng Sơn rõ ràng là nơi bắt đầu cuộc tấn công. Nếu mục tiêu của họ là dừng lại ở Lạng Sơn, thì việc chiếm giữ thị trấn nhanh chóng sẽ làm tăng thêm ý nghĩa của bài học mà Bắc Kinh định dạy cho người Việt Nam bằng cách vạch trần lỗ hổng của Hà Nội. Đối với Trung Quốc, thành công nhanh chóng trên mặt trận này là rất quan trọng. Trên chiến trường, nó tìm kiếm sự bảo đảm chiến thắng bằng cách tập trung ít nhất chín sư đoàn bộ binh chống lại sư đoàn duy nhất của Việt Nam, sư đoàn 3 được bố phòng xung quanh Lạng Sơn.

 

Quân đoàn 55 mở cuộc tấn công bằng cách đẩy Sư đoàn 163 xuống phía Nam qua đèo Hữu nghị, với lệnh đánh chiếm 3 mục tiêu ban đầu: Đồng Đăng; Dãy đồi dài 4 km về phía Nam của thị trấn bao gồm Đồi 339, Khám Mỡ, Đồi 505, Đồi 423 và giao lộ của Quốc lộ 1A và Quốc lộ 1B. Tất cả các mục tiêu này đều nằm trong vòng 5 km từ đèo Hữu nghị. Trên sườn phía Tây của cuộc tấn công của Quân đoàn 55, Sư đoàn 164 đã tiến vào Việt Nam theo các mốc biên giới 15 và 16 với lệnh thiết lập trên Quốc lộ 4A và ngăn chặn sự tăng cường của Lạng Sơn từ Cao Bằng. Cũng là tấn công về hướng nam Lạng Sơn, đánh chiếm Đồi 386, Đồi 438, Cồn Khoang, Khôn Lăng và đóng cửa phòng tuyến của Trung Quốc ở phía Nam Đồng Đăng. Mục tiêu ban đầu sâu nhất của Sư đoàn 164 là Khôn Lăng, cách cửa khẩu biên giới của nó khoảng 5 km về phía Nam, và tại điểm rộng nhất mà khu vực mà nó kiểm soát là 2 km. Việc thực hiện thành công các kế hoạch này sẽ cho phép hai sư đoàn Trung Quốc kiểm soát các điểm cao ở hai bên sườn đường tiến công của họ: Đồi 438 ở phía Tây và Đồi 505 ở phía Đông. Đối mặt với họ, trên một mặt trận rộng 5–7 km, là Trung đoàn 12 Bộ binh thuộc Sư đoàn 3 Việt Nam.

 

 (còn tiếp)

 

Nguồn: O’Dowd, E. C. (2007). “Chinese Military Strategy in the Third Indochina War - The last Maoist war”. London: Routledge, pp. 45-65.

 

  • ĐỌC THÊM
popup

Số lượng:

Tổng tiền: