CUỘC CÁCH MẠNG CỘNG SẢN CỦA VIỆT NAM: QUYỀN LỰC VÀ NHỮNG GIỚI HẠN CỦA Ý THỨC HỆ (6)

19/ 04/ 2023

CUỘC CÁCH MẠNG CỘNG SẢN CỦA VIỆT NAM: QUYỀN LỰC VÀ NHỮNG GIỚI HẠN CỦA Ý THỨC HỆ (6)

Vũ Tường

Nguyễn Trung Kiên dịch (Kỳ 6)

(Kỳ 1Kỳ 2Kỳ 3Kỳ 4, Kỳ 5)

 

CHƯƠNG 2

CỦNG CỐ TẦM NHÌN LÊNIN-NÍT, 1931 -1940

Tháng 11 năm 1931, Trần Đình Long nhận lệnh trở về Đông Dương cùng với Lê Hồng Phong, bạn học của ông tại Moscow. Long và Phong mang theo 400 đô-la do QTCS cấp và được giới thiệu để tham gia vào ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD). Chúng ta không biết Long trở về bằng cách nào, nhưng sau đó Phong đã gửi báo cáo cho QTCS về cuộc hành trình đầy gian nan và trắc trở của mình. Hai người chia tay nhau ở Paris, và Phong chọn trở lại Việt Nam qua ngả Xiêm La vì ông có những người cần liên hệ ở đó, những người có thể tóm tắt cho ông về tình hình Đông Dương.[175] Tuy nhiên, khi đến Bangkok, ông mới được biết chính sách của Xiêm La đã thay đổi và bây giờ cần phải có hộ chiếu để nhập cảnh. Không thể vào Xiêm La, Phong đã đợi mười ngày trong một khách sạn trước khi lên tàu đến Hồng Kông. Thật không may, tất cả số tiền ông mang theo (bao gồm cả 400 đô-la) đã bị đánh cắp khi ông đến nơi. Thông thường, ông cất nhiều lượng tiền nhỏ ở nhiều nơi khác nhau trong vali và túi của mình, nhưng vào ngày đặc biệt đó, khi tên trộm ập vào, ông đã cất hết tiền vào một chỗ, theo cách không thể giải thích được. Phong phải bán chiếc áo khoác của mình với giá 5 đô-la (tiền Hồng Kông) để mua vé đi Quảng Châu.

Ở đó, ông đăng ký theo học tại một trường đại học địa phương, tuyên bố rằng ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa người Việt, những người muốn học về chủ nghĩa Tôn Dật Tiên. Ông được mời đến gặp Hiệu trưởng trường đại học - người đã giúp ông liên lạc với các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) trong thị trấn. Một ngày nọ, bốn đảng viên VNQDĐ đến nói chuyện với Phong trong khách sạn của ông, và từ họ, ông biết được mối thù hận giữa các nhóm cộng sản chủ nghĩa người Việt ở Quảng Châu. Lo sợ danh tính của mình có thể bị lộ, đêm đó ông đã bán vali và một số quần áo với giá 30 nhân dân tệ và chuyển đến một khách sạn khác. Ông đã hành động chính xác, bởi vì, như một người bạn sẽ cho ông biết vài tháng sau đó, cảnh sát đã đến tìm ông vào ngày hôm sau. Sau đó, ông làm thợ máy ở Quảng Tây, và trong vòng một năm, ông đã liên lạc lại với các thành viên Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) ở miền Nam Trung Quốc và Xiêm La.

Việc kể lại ngắn gọn về cuộc hành trình của Phong bằng giọng văn của ông gợi nên cảm giác về môi trường nguy hiểm mà những người cộng sản bí mật đang hoạt động. Trải nghiệm của Phong khá phổ biến ở các nhà cách mạng Việt Nam. Những năm tháng thú vị khi học tập ở Moscow được tiếp nối bằng những tháng ngày di chuyển trên tàu buôn, nhiều tuần trú tại khách sạn rẻ tiền, những công việc tạm thời và cư trú ở nước ngoài bằng tên giả, với những sơ suất, rủi ro và những vụ bắt bớ thường trực luôn chờ đợi. Nhiều đồng chí của Phong rời bỏ phong trào để sống một cuộc sống âm thầm hoặc tệ hơn là phản bội lý tưởng để làm gián điệp cho cảnh sát Pháp.[176] Những người vẫn giữ được cam kết như Phong hẳn phải có niềm tin sâu sắc hơn vào chính nghĩa, mặc dù chắc chắn niềm tin không phải là yếu tố duy nhất.

Phong trở lại châu Á vào thời điểm quan trọng. Thập niên 1930 đã bắt đầu thật tốt đẹp nhưng hóa ra lại là một thập kỷ tàn khốc nhất đối với phong trào. Sáu tháng trước khi Phong rời Moscow, Trần Phú và Ngô Đức Trì đã bị cảnh sát Pháp bắt tại Sài Gòn. Nguyễn Ái Quốc và nhiều cộng tác viên chủ chốt ở miền Nam Trung Quốc và Hồng Kông bị bắt ngay sau đó.[177] Nhưng, như hành trình của Phong ngụ ý, vẫn có những tia hy vọng le lói bất chấp những lối thoát đầy chật hẹp.

“CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC LÀ MỘT TRỜI MỘT VỰC”

Thập niên 1930 đã bắt đầu với các sự kiện quốc tế trọng đại, bao gồm cuộc Đại suy thoái, quá trình công nghiệp hóa của Liên Xô và sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát-xít. Khi Trần Phú triệu tập một cuộc họp của các nhà lãnh đạo ĐCSĐD vào tháng 3 năm 1931 (sau này được gọi là Hội nghị toàn thể lần thứ hai), thế giới tư bản chủ nghĩa đã sụp đổ.[178] Thương mại bị đóng băng, các ngân hàng sụp đổ, và sản xuất hàng loạt bị thu hẹp trở lại. Hội nghị này ghi nhận rằng hơn 50 triệu công nhân đã thất nghiệp tại châu Âu và Hoa Kỳ. Nếu tính cả gia đình họ, tổng số người bị ảnh hưởng lên tới từ 150 đến 180 triệu người, hay một phần mười dân số thế giới. Ngược lại, ở Liên Xô, “sự phát triển của chủ nghĩa xã hội đang ‘lên vùn vụt’ và đã vượt xa kế hoạch”. Sản xuất công nghiệp hiện chiếm 70% nền kinh tế Liên Xô. Các nông trang tập thể chiếm gần một nửa tổng diện tích canh tác. Không chỉ tình trạng thất nghiệp biến mất mà còn thiếu hụt nhân công. Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD hy vọng rằng giờ đây “nhân dân lao động trên thế giới” có thể thấy sự tương phản hoàn toàn giữa các hệ thống tư bản và hệ thống Xô-viết. Một hệ thống chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế và xóa bỏ tình trạng thất nghiệp và ‘thống khổ’. Hệ thống kia đang suy sụp và công nhân đang phải chịu đựng nỗi thống khổ.

Nghị quyết của Hội nghị toàn thể nhận thấy rằng các vấn đề trong thế giới tư bản và sự tiến bộ ở Liên Xô đã thúc đẩy các phong trào cách mạng ở khắp nơi.[179] Tại Đức, Hoa Kỳ, Pháp và Tây Ban Nha, hàng triệu công nhân đã tham gia các cuộc đình công gần đây. Các cuộc đình công này hiện đã đoàn kết công nhân ở nhiều quốc gia và mang tính quốc tế; chúng không phải là những cuộc đình công thông thường mà là những cuộc biểu tình chống lại toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa. Ở Miến Điện, Maroc, Peru, Argentina, Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Dương, các phong trào giải phóng cũng đã mở rộng bất chấp sự đàn áp của nhà nước. Ở Đông Dương, mặc dù phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh đã thoái trào, nhưng các nhà lãnh đạo ĐCSĐD cảm thấy được khích lệ bởi thực tế là cuộc đấu tranh nông dân đã tiến hóa lên hình thức tổ chức tiên tiến hơn và mang tính giai cấp rõ ràng hơn; bây giờ họ không chỉ chống lại chủ nghĩa đế quốc mà còn chống lại địa chủ và phong kiến ở địa phương.[180]

Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD tin rằng các cuộc cải cách kinh tế không thể cứu vãn chủ nghĩa đế quốc được nữa. Biện pháp duy nhất của các nước đế quốc là sử dụng vũ lực, nhưng họ không thể làm như vậy mà không đàn áp phong trào cách mạng và đánh bại Liên Xô - “pháo đài của cách mạng thế giới ”. Bằng chứng về xu thế này đã được tìm thấy trong việc các nước tư bản áp dụng chiến thuật “phát-xít” để dẹp tan các phe đối lập trong nước, và trong quá trình họ bận rộn chuẩn bị cho chiến tranh. Các cáo buộc chung của họ chống lại “việc bán phá giá của Liên Xô” đã cho thấy âm mưu chống lại Liên Xô.[181]

Mặc dù các nhà lãnh đạo ĐCSĐD đánh giá cao môi trường quốc tế thuận lợi, họ bày tỏ sự thất vọng sâu sắc với Đảng của mình. Một năm sau khi các nhóm cộng sản đầy bất hòa được thống nhất lại, và năm tháng đã trôi qua kể từ khi ban lãnh đạo mới của Trần Phú được thành lập, thực tế là Đảng vẫn còn rất ít đảng viên xuất thân từ công nhân. Các chi bộ nông thôn của nó đã được mở rộng nhanh chóng; trí thức và nông dân hiện nay chiếm 90% số đảng viên.[182] Các xứ ủy Bắc kỳ và Trung kỳ vẫn chưa hoạt động tập thể như một nhóm. Kỷ luật đảng ở một số chi bộ còn lỏng lẻo và chỉ dựa vào các thủ đoạn chỉ huy và đe dọa những chi bộ khác. Đối với các nhà lãnh đạo trung ương, những hiện tượng nói trên phản ánh tư duy và hành vi của “chế độ tư sản dân tộc”, chẳng hạn như “sợ đấu tranh” và “thiếu tin tưởng vào quần chúng”. Quyết định của một số xứ ủy không tổ chức đình công trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế vì sợ công nhân sẽ ủng hộ yếu ớt cho thấy sự sợ hãi đấu tranh. Một lỗi “tiểu tư sản” khác đã được tìm thấy trong những đòi hỏi các ông chủ không được trừng phạt người lao động bằng cách trừ nhiều hơn mức một phần ba tiền công hàng ngày của công nhân, hoặc phải cho người lao động nghỉ làm vào ngày Chủ nhật. Những đòi hỏi đó tỏ ra quá rụt rè.[183]

Để khắc phục tình hình, nghị quyết của Hội nghị toàn thể kêu gọi bổ sung thêm nhiều công nhân vào các xứ ủy tại các miền, đồng thời loại bỏ “những trí thức cơ hội chủ nghĩa”.[178] Ngoài ra, mọi Đảng viên được kêu gọi loại bỏ các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong suy nghĩ và hành động của họ. Toàn Đảng phải thu hút nhiều công nhân hơn, tổ chức nhiều chi bộ hơn, và tập trung phát triển các công đoàn và đoàn thanh niên cộng sản (chứ không chỉ các hội nông dân). Rõ ràng, nghị quyết này nhằm thực hiện chính sách đấu tranh giai cấp của QTCS năm 1928-1929 như đã được thông qua tại Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Đảng vào tháng 10 năm 1930.

Trong cuốn tiểu sử về Hồ Chí Minh, Quinn-Judge cho rằng Hồ tiếp tục bị Trần Phú chỉ trích ở điểm này. Bằng chứng của bà là một lá thư, trong đó, theo Quinn-Judge, Phú đã “cho rằng Hồ phải chịu trách nhiệm phần lớn về di sản của ‘các tổ chức cách mạng cũ’ [như VNTNCMĐCH] trong đảng của người Việt”.[185] Mặc dù Phú có đề cập đến di sản đó trong lá thư của mình, nhưng trên thực tế, ông đã tuyên bố rõ ràng rằng “chúng tôi lưu ý các ngài [tức các cán bộ của QTCS] đến vấn đề ‘không chỉ trích Kok [Quốc] , mà chỉ để nhắc nhở các ngài về cách ĐCSĐD thống nhất đã ra đời và điều đó đã tạo ra những hậu quả xấu xa như thế nào cho chúng ta cho đến tận ngày nay". [186] Vì vậy, Phú rõ ràng đã miễn trừ trách nhiệm cá nhân cho Quốc về vấn đề này. Bức thư đã đưa ra một lời chỉ trích cụ thể đối với Quốc, nhưng đây là về hành vi của ông, chứ không phải về lòng trung thành với QTCS hay khuynh hướng ý thức hệ của Quốc. Đặc biệt, bức thư yêu cầu không tiếp tục sử Quốc làm liên lạc viên giữa ĐCSĐD và QTCS “vì anh ta quá ngắn gọn và đôi khi đưa ra ý kiến riêng của mình mà không hỏi ý kiến các ngài. Kok [Quốc] liên lạc với cả Ban Chấp hành TW và Xứ ủy Bắc kỳ; anh ta yêu cầu mọi đảng viên phải báo cáo. Tình trạng này thật tồi tệ. Một đồng chí thậm chí đã hỏi chúng tôi: lãnh đạo của chúng tôi là ai, Ban Chấp hành TW hay Kok [Quốc]?”.[187]

Không giống như những gì Quinn-Judge tuyên bố, căng thẳng giữa Quốc và Ban Chấp hành TW chỉ liên quan đến tệ quan liêu chứ không phải về bản chất ý thức hệ. Với tư cách là đại diện của QTCS, Quốc đã nhận và trả lời trực tiếp các báo cáo của cả Ban Chấp hành TW và các Xứ ủy trước khi chuyển các tài liệu đó cho Cục Phương Đông của QTCS tại Thượng Hải. Quốc nhận thức rõ ràng vai trò của mình là một người đại diện chứ không phải là một liên lạc viên. Chẳng hạn, trong một bức thư ngày 20 tháng 4 năm 1931, Quốc chỉ trích các xứ ủy của ĐCSĐD về nhiều vấn đề, từ cách họ triệu tập các cuộc họp đến cách họ thiết lập chương trình nghị sự và lập kế hoạch hành động. Ông trừng trị họ vì không tuân theo chỉ thị của QTCS để đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông nói với họ rằng tất cả bọn họ phải thảo luận về Chỉ thị của QTCS và nghị quyết của Ủy ban Trung ương ĐCSĐD, sau đó đưa ra nghị quyết của riêng mình về Chỉ thị và nghị quyết trên. Những nghị quyết [được ban hành tại địa phương] đó phải được gửi đến Ban Chấp hành TW, sau đó sẽ gửi chúng cùng với QTCS [để xem xét]. Chỉ khi thực hiện được các bước đó thì kỹ năng của người đảng viên mới được nâng lên, mới thực hiện được các chỉ thị, nghị quyết của QTCS và của Ban Chấp hành TW; mới có thể biết được liệu tư tưởng và hành động của đảng viên có thống nhất được không; QTCS có giám sát được kỹ năng cách mạng của đảng viên không; và có thể thực hiện triệt để việc liên lạc từ các chi bộ đến Ban Chấp hành TW và đến QTCS (vốn là mong muốn của QTCS).[188] Lời khuyên của Quốc đối với các xứ ủy, như vừa được đề cập, cho thấy rằng ông muốn một cấu trúc Đảng mang tính trung ương tập quyền hơn sẽ được đệ trình đầy đủ cho QTCS. Ở điểm này Quốc đã thực hiện trung thành vai trò đại diện của QTCS, hành động vì lợi ích của QTCS. Các quan chức của QTCS hẳn sẽ hài lòng với những gì Quốc báo cáo. Về phần mình, Ban Chấp hành TW ĐCSĐD cũng có thể thích lời chỉ trích của Quốc đối với các xứ ủy cấp dưới, nhưng rõ ràng là không thoải mái bởi thực tế là ông đã bỏ qua nó và liên lạc trực tiếp với các xứ ủy đó. Đây là lý do tại sao Trần Phú yêu cầu QTCS chỉ sử dụng Quốc như một liên lạc viên. [189]

Lời khuyên của Quốc dành cho các xứ ủy cũng thể hiện sự sẵn sàng thực hiện chính sách đấu tranh giai cấp của QTCS được đưa ra tại Hội nghị lần VI vào năm 1928 của QTCS. Không giống như những gì Quinn-Judge suy đoán, không có bằng chứng nào cho thấy Quốc đã cố gắng kiềm chế việc thực hiện chính sách cực đoan chống lại trí thức và địa chủ của Xứ ủy Trung kỳ lúc bấy giờ.[190]

Đầu năm 1931, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD bận tâm đến công tác tuyên truyền không kém gì so với các vấn đề tổ chức.[191] Vì Đảng còn rất non trẻ, các nhà lãnh đạo của Đảng muốn xây dựng “nền tư tưởng vô sản” giữa các đảng viên và giữa “quần chúng vô sản”.[192] Theo quan điểm của họ, tuyên truyền phải dựa trên tư tưởng và chính sách của Đảng; phải chịu sự giám sát của cơ quan chuyên môn dưới sự chỉ đạo của một Ủy viên Trung ương; và phải nhằm chống lại “các khuynh hướng sai lầm”, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng bởi các tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc, xu thế cải cách [nửa vời (ND)], hay xu thế hợp tác [với các kẻ thù giai cấp (ND)]. Tuyên truyền phải “rèn luyện các đảng viên và quần chúng vô sản theo tinh thần của chủ nghĩa Marx-Lenin, dạy họ làm theo đường lối đúng đắn của QTCS và của Đảng”. Nhân dân phải được thuyết phục rằng đường lối của Đảng không chỉ đúng đắn, mà là con đường đúng đắn ‘duy nhất’ dẫn đến chủ nghĩa cộng sản. Về phương pháp tuyên truyền, sự lặp lại là rất cần thiết: Đảng viên được khuyến cáo không nên lo lắng về việc mọi người sẽ chán khi nghe những thông điệp giống hệt nhau hàng ngày. Quan trọng nhất, tuyên truyền phải ‘xác thực’ và phải gắn với cuộc đấu tranh hàng ngày của quần chúng. “Chủ nghĩa Marx-Lenin là lý luận hành động cách mạng của giai cấp vô sản, không phải là lý luận ‘hư danh’.”[193]

Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD nghiêm túc coi chủ nghĩa Marx-Lenin không phải là một giáo điều mà là một lý thuyết sống động hướng dẫn các hành động, gắn bó chặt chẽ và được hiện thực hóa thông qua các hành động cụ thể. Một cuộc khảo sát về cách thức tổ chức tuyên truyền và cách các thông điệp được nhấn mạnh sẽ mang lại thông tin hữu ích về niềm tin thực sự của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam tại thời điểm đó. Lịch cách mạng của ĐCSĐD, nơi tổ chức các hoạt động của họ, không có ngày tháng nào gắn liền với văn hóa, lịch sử hay con người Việt Nam. Thay vào đó, các lễ kỷ niệm ngày mất của Lenin, Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht (21 tháng 1), Ngày Quốc tế Phụ nữ (8 tháng 3), Công xã Paris (18 tháng 3), Ngày Lao động (1 tháng 5) và Cách mạng Nga (7 tháng 11) là những dịp để vận động.[194] Những ngày này là biểu tượng cho các cam kết của Đảng đối với phong trào cộng sản quốc tế, và các hoạt động này là một phần để nuôi dưỡng tinh thần cộng sản quốc tế trong các đảng viên.

Ví dụ, vào ngày 8 tháng 3 năm 1931, Xứ ủy Nam kỳ của ĐCSĐD đã phát một tập sách nhỏ nói về sự tương phản trong địa vị của người phụ nữ giữa Liên Xô và các nước tư bản.[195] Phụ nữ dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, bao gồm cả phụ nữ ở Đông Dương, được cho là làm việc chăm chỉ với mức lương thấp; được đối xử như nô lệ tại nơi làm việc của họ; bị áp bức bởi hủ tục phong kiến; gánh nặng công việc gia đình; và bị bạo hành trong gia đình của họ. Ngược lại, ở Liên Xô, luật pháp tiến bộ cấm lao động nữ làm những công việc nguy hiểm và đảm bảo họ được trả mức lương thỏa đáng và thời gian nghỉ ngơi hào phóng. Họ được giải phóng khỏi gánh nặng của việc chăm sóc trẻ em và công việc gia đình được với 17.000 trung tâm chăm sóc và “các căng-tin tập thể” phục vụ 20 triệu người. Phụ nữ được giáo dục và được bầu vào những vị trí xứng đáng trong hệ thống chính trị. Ví dụ, 312.000 phụ nữ là thành viên của các hội đồng đại diện của công nhân và nông dân, và 56.000 phụ nữ là thành viên của các hội đồng công nhân. Họ chiếm 20% trong số thành viên của cấp ủy đảng. Cuốn sách nhỏ kết luận rằng chỉ khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, phụ nữ mới có thể có tự do và bình đẳng giới.[196]

Cuốn sách nhỏ này gợi ý rằng chủ nghĩa Marx-Lenin không phải bao gồm một số tư tưởng trừu tượng mà là thông tin chân thực và cấu trúc nên các hoạt động hàng ngày của các nhà hoạt động cộng sản. Có nhiều sự thật trong tuyên bố rằng phụ nữ Liên Xô được hưởng bình đẳng giới cao hơn chị em của họ trong nhiều xã hội truyền thống và tư bản. Hình ảnh tổng thể về Liên bang Xô-viết nghe giống như một thiên đường, nhưng nó liên quan đến những mối quan tâm hàng ngày của phụ nữ: chăm sóc con cái, việc nhà và những sự lạm dụng trong gia đình. Cuốn sách nhỏ này đã truyền cảm hứng cho các nữ công nhân đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với người sử dụng lao động của họ: không phải làm công việc nguy hiểm, được trả lương cao, thời gian nghỉ phép dài, chăm sóc trẻ em và ăn uống tại căng-tin nhà máy. Nó đề xuất các hình thức tổ chức có thể có cho những người quan tâm; đó là các hội đồng công nhân và các chi bộ Đảng. Nhiệm vụ cuối cùng của việc lật đổ chủ nghĩa tư bản không phải là một mục tiêu trừu tượng mà gắn liền với những vấn đề thường ngày như vậy.

Một ngoại lệ hiếm hoi đối với lịch hoàn toàn theo chủ nghĩa quốc tế của ĐCSĐD trong năm 1931 là lễ kỷ niệm đầu tiên của cuộc nổi dậy Yên Bái vào ngày 9 tháng 2 năm 1931. Tất nhiên, những sự kiện kịch tính vào ngày đó và sự tử vì đạo của các lãnh tụ mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa đã gây ấn tượng mạnh đối với tất cả người Việt Nam và ĐCSĐD các nhà lãnh đạo muốn chia sẻ sự ấn tượng đó. Tuy nhiên, họ không nhầm lẫn đối với lòng trung thành của mình. Trong một cuốn sách mỏng gồm 29 trang để hướng dẫn cán bộ về cách tổ chức sự kiện này, các nhà tuyên giáo của Đảng giải thích rằng ngày được chọn vì năm 1930 là năm khi làn sóng cách mạng lớn ở Đông Dương đã đạt đến một tầm vóc lịch sử, và các cuộc nổi loạn Yên Bái xảy ra đầu tiên trong năm đó.[197] Tuy nhiên, cuốn sách nhỏ giải thích, việc chọn ngày đó không có nghĩa là các nhà lãnh đạo ĐCSĐD đồng ý với ‘quốc gia chủ nghĩa’ và hoàn toàn tôn trọng các nhà lãnh đạo VNQDĐ đã hy sinh mạng sống của họ cho niềm tin đó. Thay vào đó, sự kiện này là “một thời điểm thích hợp cho người cộng sản để giải thích cho quần chúng lao động... mà chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân tộc là ‘một trời một vực’và hai chủ nghĩa này không bao giờ có thể chứa đựng [‘phân hợp’] lẫn nhau”. [198] Mục đích không phải để tưởng nhớ câc lãnh tụ theo chủ nghĩa dân tộc, mà để “sử dụng sự kiện này để mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản để quần chúng Đông Dương [sẽ] tham gia chiến đấu dưới sự lá cờ của chủ nghĩa cộng sản để lật đổ đế quốc, phong kiến và địa chủ, và thành lập chính phủ công-nông-binh”. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản Đông Dương sẽ không cô độc bởi vì “giai cấp vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa và bán thuộc địa đều là anh em và không bị chia rẽ bởi chủng tộc hay quốc tịch”. [199]

“ĐÊM TRƯỚC CỦA LÀN SÓNG CÁCH MẠNG KHÁC”

Cuối tháng 4 năm 1931, cảnh sát Pháp ở Sài Gòn bắt được Trần Phú, Ngô Đức Trì và gần như toàn bộ Ban Chấp hành TW. Phú qua đời sau đó sáu tháng trong khi bị bắt, mà không phản bội các đồng chí của mình.[200] Trì đầu thú và tiết lộ cho chính quyền mọi liên hệ của mình, dẫn đến nhiều vụ bắt giữ nữa. Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại Hồng Kông vào tháng 5 và sẽ ở tù hơn một năm trước khi được chính quyền Anh thả tự do. Sau đó, ông đã dành một thời gian ẩn náu ở miền Nam Trung Quốc trước khi lên đường sang Liên Xô vào năm 1934. ĐCSĐD đã sụp đổ với tư cách là một tổ chức, nhưng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam vẫn tồn tại nhờ niềm tin của những người sống sót và sự hỗ trợ quan trọng của QTCS. Đến thập niên 1930, mạng lưới các tổ chức và nhà hoạt động cộng sản của QTCS đã lan rộng trên một khu vực địa lý rộng lớn từ Thượng Hải đến Singapore và Sài Gòn, với các thủ đô Tây Âu đóng vai trò là trung tâm tuyển dụng, điểm đào tạo, trạm trung chuyển và trung tâm liên lạc. Mạng lưới này đã giúp các nhà cộng sản Việt Nam xây dựng lại tổ chức của họ, mặc dù, như sẽ thấy ở phần dưới, việc tái lập tổ chức là một nhiệm vụ khó khăn.

Tại thời điểm này, ngọn đuốc cách mạng đã được truyền cho hai nhóm sinh viên mới tốt nghiệp tại trường Đại học Phương Đông, những người đã chia rẽ để trên hai con đường khác nhau. Một nhóm gồm Trần Đình Long và Lê Hồng Phong - người đã kể lại về cuộc hành trình về miền Nam Trung Quốc ở đoạn trước. Sau khi Phong ổn định cuộc sống, ông đón Hà Huy Tập và những người khác từ Moscow trở về. Nhóm này cùng nhau thành lập ‘Ban chỉ huy ở ngoài’ của ĐCSĐD và cố gắng chỉ đạo phong trào cộng sản ở Việt Nam.[201] Nhóm thứ hai gồm bộ đôi Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai, đến từ Nam kỳ và từng là sinh viên đại học ở Paris trước khi được đào tạo ở Moscow. Đây là các nhà cộng sản Việt Nam được giáo dục tốt nhất trong thế hệ của họ. Sau khi trở về Sài Gòn qua ngả Paris, Tạo và Mai cộng tác với những người bạn Trotskyist của họ từ những ngày còn ở Paris, như Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm, để tranh cử các ghế trong Hội đồng thành phố.[202] Lớn lên ở Nam kỳ, Tạo và Mai phát triển mạnh trong môi trường chính trị cởi mở ở đó, điều này càng trở nên cởi mở hơn sau khi Mặt trận Bình dân Pháp dưới thời Thủ tướng Léon Blum lên nắm quyền vào tháng 5 năm 1936. Cũng được đào tạo tại cùng một trường đại học, Tạo và Mai hoạt động hợp pháp và độc lập với bộ máy hành chính bí mật của QTCS vốn vẫn đang giám sát Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú và Lê Hồng Phong.

Khơi dậy lòng trung thành đang giảm sút của các đảng viên sau quá nhiều mất mát là một phần công việc lớn của Phong và Tập với tư cách là các lãnh đạo mới của ĐCSĐD. QTCS trực tiếp điều phối nỗ lực này bởi nó cũng có sự tham gia của Đảng Cộng sản Pháp. Đầu năm 1932, một số nhóm tự xưng là “TW Đảng lâm thời” của ĐCSĐD đã gửi cho Đảng Cộng sản Pháp một bức thư. Các tác giả của bức thư này đã than thở rằng sự đàn áp của Pháp là một thảm họa đối với Đảng, lúc này Đảng đang ‘hấp hối’.[203] Thật kỳ lạ, bức thư này đổ lỗi cho thất bại của làn sóng cách mạng dâng cao trong những năm 1930-1931 cho ĐCSĐD cũng nhiều như cho sự tàn bạo của người Pháp. Xứ Đông Dương lạc hậu có một giai cấp vô sản nhỏ và yếu, nghĩa là tuyệt đại đa số đảng viên đều xuất thân từ nông dân và tiểu tư sản. Như bức thư kể lại: “Đảng Cộng sản được sinh ra từ những thành phần tiến bộ nhất của VNQDĐ cùng các lực lượng vô sản và nông dân”. [204] Do thành phần giai cấp không trong sạch như vậy, không thể tránh khỏi việc ĐCSĐD phải dựa vào “phương pháp đấu tranh vô chính phủ”. Nếu ĐCSĐD đã từng phục hồi sau sự sụp đổ, điều mà bức thư cho là một triển vọng không chắc chắn, thì nó sẽ cần được dẫn dắt bởi “một thành phần vô sản cốt cán”. Đảng cũng phải loại bỏ những phần tử dân tộc chủ nghĩa và tiểu tư sản.

Lập trường giai cấp bức thư nhìn chung có vẻ đúng, và các tác giả của nó vẫn trung thành với ý thức hệ. Tuy nhiên, việc sử dụng các khái niệm một cách sai lạc và giọng điệu gần như tuyệt vọng của nó hẳn đã gây xúc động mạnh với các quan chức của QTCS khi họ đọc các đoạn trích của bức thư đăng trên tạp chí ‘Cahiers du Bolchévisme’ của Đảng Cộng sản Pháp.[205] Tại một cuộc họp của Văn phòng Đông phương ở Moscow vào ngày 4 tháng 4 năm 1932, lá thư đã được thảo luận và một “đồng chí Vasilieva” được giao nhiệm vụ liên lạc với ‘Bolchévisme.’ [206] Sau đó, Văn phòng QTCS yêu cầu Hà Huy Tập (khi đó vẫn đang ở Moscow) viết một bài phản bác để đăng ngay trên Bolchévisme. Tập được khuyên nên lập luận rằng thất bại chỉ là tạm thời. Sức mạnh của các phong trào cách mạng trên toàn thế giới, sự củng cố của chính quyền cộng sản Trung Quốc, sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, cuộc khủng hoảng kinh tế và các điều kiện sống ngày càng tồi tệ ở Đông Dương - tất cả đều cho thấy một cao trào cách mạng mới sẽ sớm xuất hiện. [207]

Trong bài tiểu luận dài và đầy hùng biện của mình, Tập lưu ý rằng các lãnh tụ VNQDĐ tin vào ‘chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi’, và thất bại của họ là điều có thể đoán trước được.[208] Một số rất nhỏ đảng viên VNQDĐ đã chuyển sang ĐCSĐD sau cuộc nổi dậy bất thành ở Yên Bái, và những đảng viên này đã hoàn toàn chấp nhận lý thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, đa số đảng viên VNQDĐ vẫn giữ nguyên vẹn “chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản và hành vi dao động, khủng bố và bè phái của họ”.[209] Tập tuyên bố ĐCSĐD sẽ không có lợi khi kết nạp thành viên của VNDĐ. Ông tiếp tục bác bỏ những tuyên bố rằng ĐCSĐD đã sụp đổ, lưu ý rằng theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, cách mạng sẽ không tiến lên theo đường thẳng. Mặc dù ông thừa nhận rằng ĐCSĐD đã mắc sai lầm và phong trào đã bị một số tổn thất, nhưng Đảng còn lâu mới bị tiêu diệt. Với cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài và cuộc đấu tranh giai cấp căng thẳng ở Đông Dương và các nơi khác, bây giờ là “đêm trước của làn sóng cách mạng khác ”.

Sự lạc quan của Tập không chỉ đơn giản là để trấn an những người đồng chí đang dao động mà có thể là bởi sự đánh giá sâu sắc các quá trình lịch sử của ông . Trước khi Tập rời Moscow đến miền Nam Trung Quốc vào cuối năm 1933, ông đã hoàn thành cuốn lịch sử dài 300 trang về phong trào cộng sản Đông Dương do QTCS xuất bản tại Moscow.[210] Tác phẩm thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của ông về phong trào với tư cách là một người trong cuộc ngay từ đầu và tính lý thuyết của ông đã dễ dàng vượt qua Trần Phú. Nghiên cứu này trải dài suốt một thập kỷ từ năm 1923 đến năm 1933, tức là từ VNTNCMĐCH đến ĐCSĐD. Nó phân tích các điều kiện lịch sử làm nảy sinh chủ nghĩa cộng sản, các chính sách thuộc địa ảnh hưởng đến phong trào, và các vấn đề lý luận và tổ chức mà phong trào phải vật lộn. Chương đầu tiên về VNTNCMĐCH đưa ra những nhận xét ngắn gọn được viết bằng văn phong đẹp đẽ về nguồn gốc của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam:

“Phong trào cộng sản Đông Dương là đứa con của Cách mạng Nga... Thắng lợi của giai cấp công nhân ở một nước rộng lớn như nước Nga đã thức tỉnh tất cả các dân tộc trên toàn thế giới. [Khi tin tức lan đến], những người ở Đông Dương xa xôi đang rên xiết dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc Pháp, họ cũng tham gia cuộc đấu tranh của toàn thể quần chúng nhân dân bị áp bức trên thế giới để chống lại kẻ thù chung của họ là chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Nhưng nếu những tiếng đại bác Tháng Mười Nga lay động trái tim của quần chúng bị bóc lột ở Đông Dương và mang lại luồng gió mới cho họ, thì cách mạng Trung Quốc là người dẫn đường và là người thầy cần thiết mà số phận của nó không thể tách rời cách mạng Đông Dương”.[211]

Bởi các tổ chức sớm nhất như VNTNCMĐCH đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng và phương pháp (dân tộc chủ nghĩa) của Trung Quốc, Tập lập luận rằng “người ta ngạc nhiên khi ý thức hệ của họ vẫn còn chưa rõ ràng, suy nghĩ của họ đầy tăm tối, và quan điểm của họ tự mâu thuẫn ”. Đối với ông, tình trạng như vậy cũng xuất phát từ thành phần giai cấp của các tổ chức đó, mà thành phần tiểu tư sản là chủ yếu. Các thành viên của tầng lớp này mang theo hệ tư tưởng, quan điểm và phương pháp của nó như chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa bè phái và khuynh hướng tiến hành cách mạng chớp nhoáng. Tuy nhiên, quan điểm dài hạn của ông Tập phép ông đưa ra một đánh giá tổng thể tích cực : “Mặc dù những tổ chức ban đầu đó mắc nhiều sai lầm, nhưng chúng đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Chúng là những tổ chức đầu tiên đưa những nhân tố mới vào phong trào giải phóng dân tộc. Chúng đã báo trước chủ nghĩa cộng sản ”.

Mặc dù mọi người đều biết rằng Hà Huy Tập từng nêu lên những sai lầm của Nguyễn Ái Quốc suốt thời kỳ VNTNCMĐCH và ĐCSĐD, những phê phán này của ông phải được đặt ra ngoài bối cảnh ấy.[212] Sự nghiên cứu lịch sử của Tập đã giúp ông đã đưa ra một đánh giá cân bằng và tách biệt về những đóng góp của Quốc. Nghiên cứu mở đầu với những ghi nhận sau:

“Tưởng nhớ: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, đã từ trần ngày 26 tháng 6 năm 1932 tại nhà tù Hồng Kông; Đồng chí Lý Quý [Trần Phú], Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, từ trần tháng 10 năm 1931 tại Sài Gòn; và tất cả những người đã hy sinh cho cách mạng Đông Dương”.[213] 

(còn tiếp)

*

Nguồn: Tuong, Vu (2017). "Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology". Cambridge: Cambridge University Press.

 

  • ĐỌC THÊM
popup

Số lượng:

Tổng tiền: