• NIỀM KHAO KHÁT TIÊN TRI CỦA KARL MARX
    05/ 05/ 2023
    NIỀM KHAO KHÁT TIÊN TRI CỦA KARL MARX Peter E. Gordon Nguyễn Trung Kiên dịch   [Kỷ niêm 205 năm ngày sinh của Karl Marx]   Chúng ta có thể cứu vãn tầm nhìn về sự bình đẳng khỏi đống đổ nát của chủ nghĩa phục quốc Do Thái dựa trên lao động, hay không?   Karl Marx được sinh ra cách đây hơn hai thế kỷ, vào năm 1818, và với tác động to lớn từ các tư tưởng của ông, không nên ngạc nhiên khi chúng ta vẫn đang cố gắng hiểu cuộc đời và di sản của ông. Chỉ riêng bằng tiếng Anh, ít nhất ba cuốn tiểu sử chính đã xuất hiện kể từ đầu thiên niên kỷ: Karl Marx: Một cuộc đời của nhà báo người Anh Francis Wheen (2000), Karl Marx: Một cuộc đời trong thế kỷ XIX của nhà sử học Jonathan Sperber (2013) ), và Karl Marx: Sự vĩ đại và ảo tưởng của nhà sử học người Anh Gareth Stedman Jones (2016). Và sau đó là cuốn tiểu sử đồ sộ, nhiều tập Karl Marx và Sự ra đời của xã hội hiện đại của nhà khoa học chính trị người Đức Michael Heinrich, chỉ có tập đầu tiên được dịch sang tiếng Anh vào năm ngoái. Với một lĩnh vực gây tranh luận sôi nổi như vậy, ngay cả một người say mê Marx cũng có thể được tha thứ khi hỏi liệu có chỗ cho một cuốn tiểu sử khác không, và nó có thể đóng góp gì vào các cuộc tranh luận gay gắt xung quanh tác phẩm của ông. Cuốn tiểu sử mới là của Shlomo Avineri, nhà khoa học chính trị đáng kính của Israel, người vieets tác phẩm Tư tưởng chính trị xã hội của Karl Marx lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1968 và từ lâu đã được thừa nhận là kinh điển. Ôn hòa trong các lập luận của mình, và được viết vào thời điểm Chiến tranh Lạnh khi chủ đề về Marx hiếm khi truyền cảm hứng cho sự ôn hòa, cuốn sách chỉ ra điểm cốt yếu rằng Marx không bao giờ có ý định đưa các lý thuyết của mình vào vị thế của những quy luật bất biến, trường tồn với thời gian; ông luôn nhạy bén với những tình huống lịch sử, một tài năng tỏa sáng hơn hết trong thư từ của ông với những người đương thời. Avineri cũng vậy, đã sống ở những điểm giao thoa của lịch sử: Một người kiên quyết của chủ nghĩa phục quốc Do Thái dựa trên lao động, ông đã đóng vai trò quan trọng trong cả chính trị Israel và quốc tế. Trong những năm 1970, ông từng là tổng giám đốc của Bộ Ngoại giao Israel dưới thời Yitzhak Rabin và dẫn đầu phái đoàn Israel tới Đại hội đồng UNESCO. Ông đã không ngừng viết các tác phẩm quan trọng về lịch sử tư tưởng chính trị, bao gồm nghiên cứu về Hegel, và một tác phẩm khác về nhà triết học theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái gốc Đức gốc Do Thái Moses Hess, một trong những người đối thoại với Marx. Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi cuốn sách đầu tiên xuất hiện, và trong khoảng thời gian đó, chúng ta đã chứng kiến cả sự tan rã của Liên Xô và kể từ cuộc chiến tranh năm 1967 (nếu không muốn nói là trước đó), quá trình thực dân hóa vùng đất Palestine đang diễn ra . Cả chủ nghĩa phục quốc Do Thái và chủ nghĩa Marx đều ban đầu là những phong trào không tưởng, được truyền cảm hứng từ niềm khao khát về một tương lai không có áp bức. Nhưng cả hai chủ nghĩa này đều sẽ không tồn tại nếu không có sự thỏa hiệp bi thảm. Đọc một tác phẩm mới của Avineri là một trải nghiệm nhuốm màu u ám, đặc biệt là vì nỗ lực cứu vãn điều gì đó khỏi đống đổ nát của chủ nghĩa phục quốc Do Thái dựa trên lao động ngày nay dường như không khả thi hơn sự xuất hiện của Đấng cứu thế. Tuy nhiên, chúng ta được phép tự hỏi làm thế nào mà Marx có thể đánh giá được những rung động của tình cảm dân tộc chủ nghĩa đã làm biến đổi lịch sử Do Thái sau khi ông qua đời, và chính mối quan tâm của Avineri đối với câu hỏi phức tạp về bản sắc của Marx với tư cách là một người Do Thái đã làm cho cuốn tiểu sử mới của ông thực sự đặc biệt. Cuốn sách xuất hiện trong chuỗi ấn phẩm “Những cuộc đời của các danh nhân Do Thái ” từ Đại học Yale, một dự án chuyên khảo lớn và đang diễn ra về các danh nhân Do Thái, một số người trong số họ là những bậc anh hùng (Emma Goldman), một số người được truyền cảm hứng (Marcel Proust), một số khác là những nhân vật trong Kinh Thánh (Moses). Chuỗi ấn phẩm này đi sâu vào văn hóa đại chúng Mỹ (Barbra Streisand) và đi đến chủ đề được cho là Do Thái nhất trong số đó: hài hước. Marx hiếm khi muốn tự nhận mình là người Do Thái (1), ông cũng không thường viết với sự đồng cảm về vận mệnh chung của người Do Thái. Do đó, điều ấn tượng hơn cả là cách xử lý khéo léo của Avineri đối với một chủ đề mà các nhà viết tiểu sử khác của Marx hiếm khi đề cập đến mà không bối rối. Avineri quá tỉnh táo để không cho phép mình có bất kỳ suy đoán lãng mạn nào về “tính Do Thái” thiết yếu trong tư tưởng của Marx, ông cũng không bóp méo ghi chép lịch sử để khiến nhân vật chính của mình tuân theo khuôn mẫu đáng ngờ về cuộc sống của người Do Thái. Tiểu sử của ông là một mô hình của sự kiềm chế, đan xen giữa câu chuyện khá quen thuộc về sự nghiệp của Marx với những hiểu biết ngắn gọn nhưng sáng suốt về những thành tựu của Marx với tư cách là một nhà lý thuyết xã hội. Đồng thời, ông cũng đưa ra ánh sáng mới cho câu hỏi gây tranh cãi về vị trí của Marx trong lịch sử Do Thái - tuy nhiên, đó là một nhiệm vụ có thể nhắc nhở chúng ta tại sao Marx cảm thấy buộc phải bỏ lịch sử đó lại phía sau. Việc Marx từ chối việc bị định nghĩa bởi bất kỳ bản sắc dân tộc nào có thể trở thành bài học sâu sắc nhất trong cuộc đời ông. Marx sinh năm 1818 tại Trier, một thị trấn ở Rhineland đã rơi vào tay Vương quốc Phổ sau Chiến tranh Napoléon. Sự ngẫu nhiên về chính trị và địa lý này có thể giúp giải thích việc chàng trai trẻ Karl Marx chuyển hướng sang chủ nghĩa cấp tiến chính trị, đặc biệt là vì nó đánh dấu việc vận may của những người Do Thái gốc Đức ở Rhineland bị đảo ngược, bởi họ từng là những người từng được hưởng lợi từ chính sách trọng dụng nhân tài của Napoléon. Có lẽ đây là một trong những nguồn gốc của lòng nhiệt thành đối với công lý phổ quát và sự ghê tởm đối với phản ứng chính trị, những thứ đã duy trì Marx trong suốt cuộc đời của ông. Tổ tiên của ông, cả bên nội và bên ngoại, đều là giáo sĩ Do Thái; ông nội của ông cũng là một giáo sĩ Do Thái, xuất hiện trong một cuộc điều tra dân số năm 1801 với tên là “Marx Lewy”, nhưng ngay sau đó, sự thay đổi bất thường về ngôn ngữ và tài liệu đã đảo ngược thứ tự của tên họ thành Lewy Marx. Khi cha của Karl, Heinrich, trúng tuyển vào Đại học Hoàng gia ở Coblenz năm 1813, ông được ghi danh là “Henry Marx, fils de Marcus Samuel Levy.” Ông còn được gọi là “Heschel Lewy,” sau đó, cái tên được Đức hóa, và với tên đầu tiên của cha ông là “Marcus” trở thành họ, Marx. Những mối nguy hiểm về tên Do Thái như vậy không phải là hiếm ở Trung Âu, đặc biệt là trong thời kỳ giải phóng người Do Thái, khi việc hòa nhập công dân đối với thiểu số Do Thái thường có điều kiện khi họ đồng ý với phong tục địa phương. Avineri đặt ra một câu hỏi gây tò mò: Nếu Karl Marx được sinh ra là Karl Levi, liệu bây giờ chúng ta có nói về “Levisism” hay học thuyết của Liên Xô về Levism-Leninism? Vâng, hẳn đó là những suy tưởng vu vơ, nhưng những suy tưởng này nhắc nhở chúng ta rằng lịch sử phụ thuộc rất nhiều vào sự tình cờ. Cũng lại là một sự tình cờ khác nữa khi Marx được sinh ra trong một gia đình có cha mẹ vẫn là người Do Thái và chưa cải đạo sang Cơ đốc giáo. Năm 1815, các nhà cai trị Phổ mới của Rhineland đã thu hồi các quyền mà người Do Thái ở đó đã được hưởng dưới sự cai trị của Napoléon. Những người Do Thái ở Rhineland từng hành nghề luật sư hoặc công chức giờ được thông báo rằng họ chỉ có thể giữ chức vụ của mình nếu họ chuyển sang Cơ đốc giáo. Heinrich đã hơn một lần kiến nghị nhà nước miễn trừ yêu cầu này, nhưng không có kết quả, và cuối cùng ông đã chuyển đổi như một vấn đề cần thiết. Cần lưu ý (mặc dù Avineri không đề cập đến sự thật) rằng Heinrich ít quan tâm đến đức tin của gia đình mình: Ông đặt niềm tin vào phong trào Khai sáng tại Pháp. Ngày Heinrich cải đạo thực sự vẫn còn là một vấn đề tranh luận: Avineri gợi ý rằng nó xảy ra vào năm 1819, có nghĩa là cả Heinrich và vợ ông vẫn là người Do Thái theo nghĩa chính thức khi con trai Karl của họ chào đời. Henriette Marx, mẹ của Karl, đã không cải đạo cho đến năm 1825, vào thời điểm đó, bà cũng đảm bảo rằng các con của bà, bao gồm cả Karl, đã được rửa tội. Không nên lấy chi tiết nào trong số này làm bằng chứng cho thấy Karl Marx quan tâm sâu sắc đến di sản Do Thái của mình, nếu ông thuwcj suwj có quan tâm. Avineri, với uy tín của mình, không đặt nặng vấn đề này quá mức, mặc dù người ta có thể tưởng tượng rằng đối với Marx, ký ức về sự phân biệt đối xử của cộng đồng sẽ làm tăng thêm sự phản đối của ông đối với nhà nước Phổ là hiện thân của phản động chính trị. Có lẽ cần lưu ý rằng Marx tỏ ra ít quan tâm đến việc kết hôn trong nooij tộc. Cha của ông là bạn của Ludwig von Westphalen, một thành viên tự do của giới quý tộc Phổ, người từng là quan chức ở Trier, và chàng trai trẻ Marx đã đính hôn và cuối cùng kết hôn với con gái của ông, Jenny von Westphalen, một phụ nữ có năng khiếu về trí tuệ và có cùng niềm đam mê chính trị với ông, và là người đã sinh cho ông ba cô con gái. Mặc dù Marx đã vào trường đại học ở Bonn với ý định học luật, nhưng ông nhanh chóng chuyển đến Berlin, nơi ông bị lôi kéo vào “Doktoren-Klub”, một nhóm sinh viên đã khơi dậy sự nhiệt tình của ông đối với chủ nghĩa Hegel như là triết học hàng đầu của thời đại. Mặc dù bản thân Hegel đã qua đời vào năm 1831, như các học thuyết triết học của ông vẫn thịnh hành tại Đại học Berlin khi Marx bắt đầu nghiên cứu ở đó vào cuối những năm 1830. Ông đặc biệt quan tâm đến các bài giảng của học trò của Hegel là Eduard Gans, nhân vật chính của chủ nghĩa Hegel ở Berlin và cũng là một người Do Thái cải đạo sang Cơ đốc giáo. Như Avineri lưu ý, Gans không thể đảm bảo chức giáo sư của mình nếu không thực hiện bước này, điều này đã trở thành chủ đề gây tranh cãi trong giới trí thức Berlin. Nhà thơ Heinrich Heine thậm chí còn lấy nó làm chủ đề cho một bài thơ: “Ngươi bò về phía thập tự giá/ Chính cây thập tự mà ngươi căm ghét.../ Hôm qua ngươi là anh hùng/ Nhưng hôm nay ngươi chỉ là một tên vô lại”. Sự thức tỉnh của Marx đối với chủ nghĩa Hegel cũng là một sự chuyển đổi. Năm 1837, ông viết thư cho cha mình rằng “một bức màn đã hạ xuống” và “các vị thần mới phải được đặt vào vị trí của chúng”. Trong phép biện chứng, Marx đã tìm thấy một phương tiện khái niệm để hợp nhất cái “là” với cái “phải”, để tập hợp một cách hiểu thực tế về thế giới như nó đang tồn tại với mệnh lệnh chính trị rằng thế giới phải được thay đổi. Tại Berlin, ông kết bạn với những người theo chủ nghĩa Hegel cấp tiến hoặc “cánh tả”, chẳng hạn như Arnold Ruge và Bruno Bauer, những người chỉ trích các khuynh hướng bảo thủ hơn trong trường phái Hegel và tiếp nhận yêu cầu cấp tiến hơn của Hegel rằng cái “thực tế” phải được biến thành “duy lý”. Thậm chí ngày nay, câu hỏi liệu Marx có thực sự là một người theo chủ nghĩa Hegel hay không vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi, đặc biệt là bởi vì những ý kiến ngông cuồng hơn của Hegel về chiến thắng của lý tính trong lịch sử hiện được coi là một sự bối rối về mặt triết học. Avineri được xếp hạng trong số những học giả giỏi nhất đã bảo vệ quan điểm rằng Marx đã duy trì mối quan hệ gắn bó với chủ nghĩa Hegel ngay cả trong những năm cuối đời của ông, khi các chủ đề siêu hình hơn mà chúng ta thường liên kết với Hegel đã biến mất khỏi tầm mắt. “Luận điểm về tính liên tục” này làm cho hình ảnh của ông về sự nghiệp của Marx trở thành một sự thống nhất lớn hơn so với các học giả, chẳng hạn như Louis Althusser, người nhấn mạnh, bất chấp bằng chứng mạnh mẽ, về sự rạn nứt giữa nhà triết học trẻ Marx theo chủ nghĩa giải phóng nhân văn và nhà phê bình Marx về kinh tế chính trị đã trưởng thành.  Khi nhìn Marx qua lăng kính lịch sử Do Thái, lẽ tự nhiên là Avineri sẽ dành trọn một chương cho bài tiểu luận năm 1843 của Marx, “ Về vấn đề Do Thái ”, mà nhiều nhà phê bình đã lên án là bài Do Thái. Avineri giải quyết chủ đề này một cách thận trọng; ông cẩn thận giải thích rằng Marx thực sự đã bảo vệ quyền của người Do Thái được tham gia đầy đủ với tư cách là những công dân bình đẳng bên cạnh những người theo đạo Cơ đốc - một lập trường nguyên tắc giúp phân biệt Marx với đồng nghiệp Bauer của ông, người đã đưa ra yêu cầu khá kỳ quặc rằng người Do Thái trước tiên phải cải sang đạo Cơ đốc bất chấp thực tế rằng nhà nước hiện đại phải hoàn toàn thế tục. Marx đã đi xa hơn khi nói rằng câu hỏi liệu người Do Thái có được công nhận đầy đủ với tư cách là những công dân bình đẳng hay không có thể dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá đặc tính hợp lý của một chính thể hiện đại. “Các quốc gia chưa thể giải phóng người Do Thái về mặt chính trị phải được đánh giá dựa trên các quốc gia chính trị đã phát triển đầy đủ  -  và bị coi là thiếu sót.” Nhưng quan điểm từ thiện này về quyền của người Do Thái trong nhà nước hiện đại đã không ngăn cản Marx sử dụng những lời phỉ báng thông thường chống lại Do Thái giáo như một từ đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản: “Sự sùng bái thế tục của người Do Thái là gì? Huckstering. Đức Chúa Trời thế tục của ông là gì? Tiền bạc." Avineri lưu ý rằng những người cùng thời với Marx hẳn đã quen thuộc với ngôn ngữ như vậy, vì trong tiếng Đức thông tục thẩm phán có thể có nghĩa là thương mại. Bằng cách nhấn mạnh rằng xã hội hiện đại phải được giải phóng khỏi “đạo Do Thái”, chủ yếu Marx muốn nói rằng xã hội hiện đại phải được giải phóng khỏi sự suy thoái của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Avineri suy đoán rằng Marx có thể đã viết theo cách đầy bí hiểm để thoát khỏi sự chú ý của những người kiểm duyệt, nhưng ông đề cập đến một điều trớ trêu hơn: Phương trình giữa Do Thái giáo và tài chính cũng đã xuất hiện trong một bài tiểu luận “Về tiền bạc”, mà Marx chỉ mới đọc một năm trước đó. Tác giả của nó là nhà văn Đức gốc Do Thái Moses Hess, người đã trở thành nhà lý luận trong thời kỳ sơ khai của chủ nghĩa phục quốc Do Thái hiện đại. Chủ đề về chủ nghĩa dân tộc của người Do Thái gây ra những khó khăn nhất định cho Avineri, vì ông rất muốn thấy mối liên hệ giữa chủ nghĩa Marx và các cam kết song song: xã hội chủ nghĩa-phục quốc Do Thái của chính mình. Điều này có thể giải thích tại sao ông nhấn mạnh nhận thức ngày càng tăng của Marx rằng chủ nghĩa dân tộc có thể là một cái gì đó hơn là một sự tàn phá lịch sử, và rằng các phong trào thống nhất dân tộc chủ nghĩa ở Ý và Đức có thể đóng một vai trò tiến bộ trong lịch sử, nếu chỉ trong giai đoạn chuẩn bị trên con đường tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. . Tuy nhiên, vì lý do tương tự, Marx đã xem xét các nỗ lực giành độc lập giữa các quốc gia nhỏ hơn như Séc hoặc các quốc gia ở Balkan, vì những phong trào như vậy, ông cảm thấy, chỉ có thể ngăn cản sự phát triển của tình đoàn kết quốc tế thực sự giữa các tầng lớp lao động. Câu hỏi sâu xa hơn là liệu Marx có thể thừa nhận rằng chủ nghĩa dân tộc có bất kỳ tính hợp pháp lâu dài nào hay không. Ở đây câu trả lời có vẻ hiển nhiên. Từ góc độ lý thuyết, chủ nghĩa Marx phải đánh giá tất cả sự gắn bó với đặc thù quốc gia là tạm thời, một triệu chứng của chủ nghĩa bộ lạc và truyền thống mà cuối cùng chúng ta phải gạt sang một bên. Chủ nghĩa Marx nhìn vào quá khứ, hoặc qua bất kỳ tình cảm dân tộc chủ nghĩa nào và tập trung sự chú ý của nó vào các điều kiện vật chất mà chúng ta chia sẻ với tư cách là một loài. Mác và Ăng-ghen viết : “Giai cấp vô sản của mỗi nước phải  trước hết giải quyết vấn đề với giai cấp tư sản của mình”. Nhưng loại chủ nghĩa dân tộc này chỉ có thể là một sân khấu, vì “những người vô sản không có tổ quốc”. Tiêu chí này phân biệt Marx với tư cách là một nhà tư tưởng theo chủ nghĩa phổ quát thực sự, người đã chống lại các kiểu đồng nhất hóa lãng mạn đã truyền cảm hứng cho các nhà văn khác của thế kỷ XIX. Chủ nghĩa phổ quát có nguyên tắc của ông sau này đã khiến Marx trở thành nguồn gốc gây khó chịu cho các nhà triết học theo chủ nghĩa tự do-đa nguyên như Isaiah Berlin, người coi sự đa dạng văn hóa của con người là điều tốt vì lợi ích của chính nó và coi việc tìm kiếm một tiêu chuẩn tự do duy nhất và cao hơn của con người là mở ra cánh cửa cho sự tự do của con người. chủ nghĩa toàn trị. Điểm đến của một người trong cuộc tranh luận này sẽ quyết định cách người ta đánh giá nỗ lực vận dụng chủ nghĩa Marx trong các phong trào giải phóng dân tộc. Nhưng dường như rõ ràng là bản thân Marx chỉ có thể duy trì sự đồng cảm đủ điều kiện nhất đối với các loại khác biệt về văn hóa và dân tộc-dân tộc mà theo quan điểm của ông chỉ có thể ngăn cản chúng ta thừa nhận số phận chung của chúng ta là con người. Chủ nghĩa cộng sản là một phương thuốc phổ quát cho một vấn đề phổ quát: Đó là “câu đố của lịch sử đã được giải đáp.” Chủ nghĩa phổ quát này cũng là một nguyên tắc mà Marx đã kế thừa từ Hegel, mặc dù ông đã chuyển nó từ lĩnh vực tinh thần sang bình diện của đời sống vật chất. Thất bại bi thảm của các cuộc cách mạng năm 1848 ở châu Âu chỉ làm tăng thêm sự thù địch của Marx đối với tất cả các yếu tố trong lịch sử loài người cản trở con đường dẫn đến tự do trong tương lai. Cuộc đảo chính của Louis Napoléon ở Pháp khiến ông vô cùng cay đắng, vì giờ đây ông thấy tầng lớp trung lưu lớp dưới có thể dễ dàng chuyển từ cách mạng sang phản động như thế nào. Tuy nhiên, đến lúc đó, Marx đã hoàn toàn từ bỏ châu Âu lục địa. Cùng với gia đình, ông định cư ở London, nơi ông làm việc để đảm bảo rằng các con gái của mình được giáo dục đàng hoàng. Ông đã viết bài cho tờ báo New-York Daily Tribune và tham gia vào các cuộc tranh luận xung quanh phong trào cộng sản mới nổi, nhưng ông đã dành phần lớn thời gian của mình tại Thư viện Anh quốc, nơi ông theo đuổi nghiên cứu về kinh tế học. Thành quả nghiên cứu của ông xuất hiện rất chậm; tập đầu tiên trong bộ sách gồm bảy tập được gọi là Tư bản luận vẫn chưa hoàn thành và mãi đến năm 1867 mới được xuất bản. Avineri thuật lại câu chuyện về những năm cuối đời của Marx một cách ngắn gọn và khéo léo, mặc dù ông tránh trình bày chi tiết về bộ “Tư bản”, bỏ qua các chủ đề như “công thức của tư bản” và vấn đề rộng lớn hơn là bóc lột vốn được cho là những khám phá quan trọng trong tập 1. Thay vào đó, chúng ta được kể những câu chuyện sống động miêu tả Marx như một nhà phê bình thế giới, phản ứng lại thảm kịch Paris Công xã vào năm 1871 và tham gia vào các cuộc bút chiến khó chịu với Mikhail Bakunin, người đã dùng đến lời vu khống bài Do Thái, cáo buộc Marx thông đồng với Disraeli và Rothschild trong một âm mưu quốc tế. Marx từ lâu đã sa sút về sức khỏe, và trong những năm tuổi già sức yếu, ông thường lui tới các spa ở Lục địa, cùng với con gái Eleanor. Trong một chuyến đi như vậy ở Carlsbad, Bohemia, ông đã gặp Heinrich Graetz, nhà sử học vĩ đại người Do Thái, và cả hai đã kết bạn, sắp xếp thời gian các chuyến thăm để họ có thể gặp lại nhau. Avineri bị thu hút bởi những chi tiết như vậy có lẽ vì chúng làm sáng tỏ Marx là một nhà tư tưởng sống bên lề lịch sử Do Thái, ngay cả khi bản thân ông không phải là một nhà tư tưởng Do Thái theo bất kỳ nghĩa nào. Marx qua đời vào tháng 3 năm 1883, và không còn sống để chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản đã áp dụng các nguyên tắc của ông làm học thuyết chính thức. Avineri không tập trung vào hậu quả này, nhưng ông kể lại một chi tiết cảm động về Eleanor, con gái của Marx. Là cư dân của London, bà đã dịch các tác phẩm của Flaubert và Ibsen, cũng như tiểu sử của Eduard Bernstein về Ferdinand Lassalle, lãnh đạo của Hiệp hội Công nhân Đức (tiền thân của Đảng Dân chủ Xã hội Đức). Bà cũng đã viết một nghiên cứu về tầng lớp lao động Mỹ và một cuốn sách về nữ quyền, “Vấn đề về phụ nữ”. Tình cờ, baf cũng học tiếng Yiddish, và trong một bài phát biểu trước những người tị nạn Do Thái tại East End, phía Đông London, bà đã nói với họ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ: “Tôi là một trong số các bạn.” Mặc dù những từ này đầy uyển chuyển, nhưng chúng chỉ mang lại chút ít ánh sáng nào cho sự hiểu biết của chúng ta về di sản của Marx. Trong cuốn sách này, Avineri, thông qua những lựa chọn nhấn mạnh và chi tiết tinh tế, đã định hình lại hình ảnh của Marx theo cách gợi ý về mối quan hệ họ hàng tinh thần giữa chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Tất nhiên, không phải tất cả những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái xã hội chủ nghĩa đều được xác định là người theo chủ nghĩa Marx, và hầu hết những người theo chủ nghĩa Marx đều thù địch với chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Nhưng mối quan hệ họ hàng của chúng đã từng là hiện thực. Sự kết hợp lịch sử của hai phong trào này vào cuối thế kỷ XIX đã giúp truyền cảm hứng cho một trong những dự án không tưởng nhất của thời kỳ hiện đại, một chiến dịch tái định cư quy tụ những người nhập cư và người tị nạn từ khắp châu Âu và Trung Đông đến một vùng đất thuộc Ottoman. Đế chế nơi tàn dư của những người Do Thái nghèo khổ đã sống hàng thế kỷ trong trạng thái mong đợi đấng cứu thế. Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xã hội chủ nghĩa, phối hợp với các biến thể khác của chủ nghĩa phục quốc Do Thái, một số thuộc thiên về văn hóa, số khác thiên về về chính trị thực dụng, đã giúp thế tục hóa khao khát tiên tri đó và tạo cho nó một hình thức chính trị. Trong phần kết cuốn sách của mình, Avineri lưu ý đến một sự thật gây tò mò, đó là trong một bài báo viết năm 1854 cho tờ New-York Daily Tribune Marx miêu tả những người Do Thái còn sót lại ở Jerusalem với những nỗi đau lớn. Marx viết: “Không có gì sánh được với “sự đau khổ và thống khổ” của bộ tộc bị ngược đãi này, những người sống nhờ “của bố thí ít ỏi do những người anh em châu Âu của họ truyền lại” và bị lôi kéo đến vùng thánh địa này chỉ vì họ muốn “được chết ngay tại nơi đó”, nơi sự cứu chuộc được mong đợi.” Marx cũng quan sát thấy rằng, trong tổng dân số 15.500 người của Jerusalem, “4.000 người theo đạo Hồi và 8.000 người Do Thái.” Avineri gán cho thực tế này một tầm quan trọng đặc biệt, vì nó gợi ý rằng ngay cả dưới sự cai trị của Ottoman, “người Do Thái chiếm đa số”. Nhưng bản thân Marx khó có thể đồng ý rằng những số liệu thống kê như vậy sẽ đóng vai trò bảo đảm cho sự thống trị dân tộc-dân tộc vĩnh viễn. Ông miễn nhiễm với mọi khao khát cứu chuộc đất nước. Phong cách chủ nghĩa dân tộc mà ông từng coi là một lực lượng tiến bộ trong lịch sử giờ đã mất hết uy tín, và ở Israel ngày nay, mối ràng buộc cũ giữa chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa phục quốc Do Thái dường như đã bị phá vỡ. B'Tselem, tổ chức nhân quyền của Israel, gần đây đã đưa ra một tuyên bố rằng cái gọi là kế hoạch hòa bình của chính quyền Trump sẽ thưởng cho Israel vì “những hành vi trái pháp luật và vô đạo đức mà họ đã tham gia kể từ khi chiếm được các Lãnh thổ”. Kế hoạch này “làm cho không gian Palestine bị chia cắt vĩnh viễn thành những mảnh lãnh thổ bị ngắt kết nối trong vùng biển do Israel kiểm soát, không giống như Bantustans của chế độ Apartheid ở Nam Phi.” Hậu quả như vậy hầu như không đáng ngạc nhiên. Chủ nghĩa phục quốc Do Thái ngay từ đầu đã là một cuộc cá cược khó xảy ra, và việc nó rơi vào một loại chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến khác có thể đã được dự đoán từ lâu. Suy cho cùng, chủ nghĩa dân tộc sinh ra từ sự chia rẽ, và mọi cuộc giải phóng cho dân tộc này đều có nghĩa là loại trừ dân tộc khác. Trong một thế giới đa nguyên, bi kịch này chỉ có thể tránh được bằng cách nhấn mạnh vào quyền công dân áp dụng cho mọi khác biệt về bản sắc dân tộc. Tất nhiên, chủ nghĩa Marx cũng thường thất bại với ý tưởng của chính nó, và những người bảo vệ nó phải tiếp tục tính đến thành tích đáng xấu hổ trong việc áp dụng nó. Tuy nhiên, không giống như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Marx vẫn có thể tồn tại qua những biến dạng trong quá khứ của nó, vì nó duy trì tầm nhìn về một miền đất hứa mà không ai có thể bị loại trừ. Đây có thể là lời hứa mà các tiên tri xưa từng nghĩ đến. * Peter E. Gordon là Giáo sư Lịch sử của Amabel B. James và là giảng viên trực thuộc khoa triết học tại Harvard. Cuốn sách mới nhất của ông là “Adorno và sự tồn tại”. (Nguồn: https://newrepublic.com/article/156766/karl-marx-prophetic-longing-labor-zionism?fbclid=IwAR06tFOgVtSZshElK2PJ_xTPaLND0adMP_V7qwonC9ll41xTf-6z2UeAhmo) (1)    Trong thời kỳ Marx sống, người Do Thái thường bị xem là một nhóm thiểu số và đối mặt với định kiến và phân biệt đối xử. Đặc biệt, Marx đã theo đuổi sự cách mạng xã hội chủ nghĩa và phê phán tư bản chủ nghĩa. Việc công khai mình là người Do Thái có thể đã gây ra những phản ứng tiêu cực và làm mất đi sự tập trung vào công trình lý thuyết của ông. Do đó, Marx quyết định không nhận mình là người Do Thái để tránh những tranh cãi và phản đối không cần thiết. (Theo ChatGPT-4)
  • JEAN-PAUL SARTRE VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP NỔI BẬT CHO HIỆN TƯỢNG HỌC
    04/ 05/ 2023
    HIỆN TƯỢNG HỌC LÀ GÌ? (5): JEAN-PAUL SARTRE VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP NỔI BẬT CHO HIỆN TƯỢNG HỌC Nguyễn Trung Kiên tổng hợp (Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4)     Jean-Paul Sartre (1905-1980) là nhà triết học, nhà văn và nhà hoạt động chính trị người Pháp, người đã có những đóng góp đáng kể cho hiện tượng học, một phương pháp triết học nghiên cứu cấu trúc của kinh nghiệm và ý thức. Là một trong những nhân vật chủ chốt của chủ nghĩa hiện sinh, Sartre tìm cách khám phá bản chất của sự tồn tại của con người, nhấn mạnh tầm quan trọng của tính chủ quan, tự do và trách nhiệm. Các tác phẩm của Sartre, bao gồm "Hữu thể và hư vô" (1943) và "Sự siêu việt của bản ngã" (1936), là công cụ định hình lĩnh vực hiện tượng học. Bài viết này sẽ xem xét một số đóng góp quan trọng nhất của Sartre cho lĩnh vực này, bao gồm khái niệm về tính ý hướng, tự-nhận thức tiền-phản xạ, ý tưởng về hư vô, và các khái niệm về tự do và tính xác thực. 1. TÍNH Ý HƯỚNG VÀ Ý THỨC Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Sartre cho hiện tượng học là nghiên cứu của ông về tính ý hướng, một khái niệm rất quan trọng để hiểu bản chất của ý thức và kinh nghiệm của con người. Được giới thiệu lần đầu tiên bởi Franz Brentano và sau đó được phát triển bởi Edmund Husserl, tính chủ đích đề cập đến "tính ý hướng" hoặc "sự định hướng" vốn có của ý thức đối với một đối tượng, có thể ở nhiều dạng khác nhau, chẳng hạn như thực thể vật chất, con người hoặc ý tưởng trừu tượng. Quan điểm của Sartre về tính ý hướng khác với quan điểm của Husserl, dẫn đến sự hiểu biết độc đáo về mối quan hệ giữa ý thức và các đối tượng, cũng như cách tiếp cận khác biệt để nghiên cứu hiện tượng học. Lập trường của Sartre về tính ý hướng xoay quanh niềm tin rằng ý thức về bản chất là có chủ ý, nghĩa là nó luôn có tính hướng tới một đối tượng. Quan điểm này nhấn mạnh rằng ý thức chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các đối tượng và nó không thể tách rời khỏi các đối tượng mà nó hướng tới. Đối với Sartre, "ý thức về một cái gì đó" này là một khía cạnh quan trọng trong trải nghiệm của con người, vì nó tạo cơ sở cho các tương tác của chúng ta với thế giới xung quanh và định hình sự hiểu biết của chúng ta về thực tại. Quan điểm của Sartre về ý thức gắn với ý hướng tính đã thách thức hiện tượng học truyền thống do Husserl thiết lập. Trái ngược với Sartre, Husserl đưa ra khái niệm về ý thức "thuần túy", cho rằng ý thức có thể tồn tại độc lập với các vật thể. Theo Husserl, có một tầng cơ bản của ý thức có thể được tiếp cận thông qua một quá trình gọi là "quy giản hiện tượng học". Phương pháp này liên quan đến việc đình chỉ hoặc "đóng khung" thái độ tự nhiên, đề cập đến các giả định được cho là hiển nhiên hàng ngày của chúng ta về thế giới, để kiểm tra ý thức mà không có bất kỳ tham chiếu nào đến các đối tượng hoặc thực tế bên ngoài. Bằng cách đề xuất cách hiểu khác về tính chủ đích và bản chất của ý thức, Sartre đã thách thức nền tảng của hiện tượng học Husserl và đưa ra một quan điểm khác về trải nghiệm của con người. Sự nhấn mạnh của ông về mối liên hệ không thể tách rời giữa ý thức và các đối tượng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của các tương tác của chúng ta với thế giới và nhấn mạnh tầm quan trọng của tính chủ quan trong việc định hình sự hiểu biết của chúng ta về thực tại. Khái niệm về tính ý hướng của Sartre, khẳng định rằng ý thức luôn gắn liền với các đối tượng mà nó hướng tới, có ý nghĩa sâu rộng đối với sự hiểu biết của chúng ta về trải nghiệm của con người và bản chất của ý thức. Bằng cách lập luận rằng ý thức về cơ bản là quan hệ và hướng đối tượng, Sartre nhấn mạnh tầm quan trọng của các tương tác của chúng ta với thế giới và vai trò của chúng trong việc định hình trải nghiệm, suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta. Quan điểm này đã có tác động sâu sắc đến các khía cạnh khác nhau của sự tồn tại của con người, chẳng hạn như nhận thức, cảm xúc và hành động, cũng như sự hiểu biết của chúng ta về sức mạnh của hành động cá nhân và bản sắc cá nhân. Quan điểm của Sartre về tính chủ đích nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của nhận thức trong mối liên hệ của chúng ta với thế giới. Theo Sartre, nhận thức của chúng ta luôn hướng tới các đối tượng cụ thể, điều đó có nghĩa là những trải nghiệm của chúng ta về thế giới về bản chất gắn liền với những sự tiếp xúc của chúng ta với những đối tượng này. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhận thức trong việc hình thành sự hiểu biết của chúng ta về thực tại và làm nổi bật mối quan hệ phức tạp giữa người nhận thức và việc nhận thức. Trong lĩnh vực cảm xúc, khái niệm về tính ý hướng của Sartre ngụ ý rằng cảm xúc của chúng ta không chỉ là những trạng thái bên trong, tùy tiện mà thay vào đó có mối liên hệ sâu sắc với các đối tượng và tình huống mà chúng ta gặp phải. Theo Sartre, cảm xúc là những cách liên quan và hiểu về môi trường của chúng ta, và chúng luôn hướng tới các đối tượng hoặc hoàn cảnh cụ thể. Sự hiểu biết về cảm xúc này nhấn mạnh tầm quan trọng của bối cảnh trong việc định hình trải nghiệm cảm xúc của chúng ta và thách thức quan niệm cảm xúc là hiện tượng hoàn toàn chủ quan. Khi nói đến hành động, sự hiểu biết của Sartre về chủ ý có ý nghĩa quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về quyền tự quyết của con người và những lựa chọn mà chúng ta đưa ra. Bằng cách nhấn mạnh tính ý hướng của ý thức, Sartre làm nổi bật vai trò của các sức mạnh của hành động cá nhân trong các tương tác của chúng ta với thế giới. Hành động của chúng ta không chỉ đơn giản được quyết định bởi các thế lực bên ngoài hoặc xung lực sinh học; thay vào đó, chúng là kết quả của sự tương tác có chủ ý của chúng ta với thế giới và những lựa chọn mà chúng ta đưa ra để phản ứng với các đối tượng và tình huống mà chúng ta gặp phải. Quan điểm này nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm cá nhân trong việc hình thành kinh nghiệm và bản sắc của chúng ta, cũng như tác động của các lựa chọn của chúng ta đối với thế giới xung quanh. 2. TỰ-NHẬN THỨC TIỀN-PHẢN XẠ  Đầu tiên, khái niệm về tự-nhận thức tiền-phản xạ mở rộng hiểu biết của chúng ta về sự tự nhận thức bằng cách thừa nhận rằng trải nghiệm của chúng ta về bản thân không bị giới hạn ở sự tự phản ánh rõ ràng. Sự công nhận này cho phép có một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về ý thức, bao gồm các khía cạnh khác nhau của sự tự nhận thức của chúng ta. Bằng cách nhấn mạnh tính phổ biến của tự-nhận thức tiền-phản xạ trong trải nghiệm hàng ngày của chúng ta, Sartre nhấn mạnh rằng ý thức về bản thân của chúng ta đã ăn sâu và liên tục hiện diện, ngay cả khi nó không phải là tâm điểm chú ý trực tiếp của chúng ta. Thứ hai, tự-nhận thức tiền-phản xạ có ý nghĩa quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về bản sắc cá nhân. Bằng cách cho rằng ý thức về bản thân của chúng ta dựa trên tính tức thời và tự phát của những trải nghiệm có ý thức của chúng ta, Sartre thách thức các quan niệm truyền thống về bản sắc cá nhân dựa trên những đặc điểm hoặc tính chất ổn định, không thay đổi. Thay vào đó, khái niệm về tự-nhận thức tiền-phản xạ của Sartre gợi ý rằng bản sắc của chúng ta là linh hoạt và năng động, liên tục được định hình và định hình lại bởi những trải nghiệm và tương tác liên tục của chúng ta với thế giới xung quanh. Thứ ba, tự-nhận thức tiền-phản xạ góp phần vào sự hiểu biết cụ thể hơn về ý thức. Việc Sartre tập trung vào tính tức thời và tự phát của những trải nghiệm có ý thức của chúng ta ngụ ý rằng ý thức về bản thân của chúng ta bắt nguồn sâu xa từ những trải nghiệm cơ thể và vị trí của chúng ta trong thế giới. Quan điểm này thách thức thuyết nhị nguyên Descartes vốn tách biệt tâm trí khỏi cơ thể, thay vào đó nhấn mạnh đến tính liên kết của các trải nghiệm tinh thần và thể chất của chúng ta. Thứ tư, tự-nhận thức tiền-phản xạ có ý nghĩa quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về tự do và quyền tự quyết của con người. Bằng cách nhấn mạnh thực tế rằng ý thức của chúng ta luôn gắn kết với thế giới, ngay cả ở cấp độ tiền-phản xạ, Sartre nhấn mạnh vai trò của cá nhân trong việc định hình trải nghiệm và ý thức về chính chúng ta. Quan điểm này gợi ý rằng quyền tự do và trách nhiệm của chúng ta không chỉ giới hạn trong lĩnh vực lựa chọn rõ ràng, có ý thức, mà còn ăn sâu vào các khía cạnh tiền-phản xạ trong ý thức của chúng ta. Thứ năm, sự nhấn mạnh vào tính tức thời và tính tự phát trong tự-nhận thức tiền-phản xạ của Sartre cũng có khả năng định hình lại hiểu biết của chúng ta về động lực của nhận thức và cảm xúc con người. Bằng cách nhấn mạnh vai trò của sự tự nhận thức trước khi phản ánh, không theo chủ đề, khái niệm của Sartre gợi ý rằng trải nghiệm nhận thức và cảm xúc của chúng ta không chỉ được quyết định bởi các quá trình suy nghĩ rõ ràng, có chủ ý. Thay vào đó, chúng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi sự gắn kết tức thời, tự phát của chúng ta với thế giới, vốn thường được định hình bởi tri thức sẵn có, trực giác và cảm giác về cơ thể. Hơn nữa, tự-nhận thức tiền-phản xạ có ý nghĩa đối với sự hiểu biết của chúng ta về sự phát triển cá nhân. Nhận thức được tầm quan trọng của việc chúng ta tham gia ngay lập tức, tự phát với thế giới có thể dẫn đến sự đánh giá cao hơn về vai trò của nhận thức và nhận biết sâu sắc trong thời điểm hiện tại đối với sự phát triển cá nhân. Bằng cách trau dồi sự nhạy cảm hơn đối với các khía cạnh tiền-phản xạ trong ý thức của mình, chúng ta có thể thúc đẩy mối liên hệ sâu sắc hơn với cái tôi đích thực của mình và nâng cao khả năng tự nhận thức, phát triển cá nhân và tự chuyển hóa. Ngoài ra, tự-nhận thức tiền-phản xạ có ý nghĩa đối với sự hiểu biết của chúng ta về tính liên chủ thể và nhận thức xã hội. Bằng cách nhấn mạnh vai trò của nhận thức tức thì, không theo chủ đề trong các tương tác của chúng ta với thế giới, khái niệm của Sartre gợi ý rằng sự hiểu biết của chúng ta về Kẻ-Khác không chỉ dựa trên những phản ánh rõ ràng, có ý thức mà bắt nguồn sâu xa từ những trải nghiệm tức thời, tự phát mà chúng ta chia sẻ với họ. Quan điểm này có thể làm sáng tỏ tầm quan trọng của giao tiếp phi ngôn ngữ, sự cộng hưởng đồng cảm và những trải nghiệm được chia sẻ làm nền tảng cho các mối quan hệ và kết nối xã hội của chúng ta. Cuối cùng, tự-nhận thức tiền-phản xạ có thể có tác động đáng kể đến sự hiểu biết của chúng ta về việc ra quyết định có đạo đức và luân lý. Bằng cách thừa nhận vai trò của tính tức thời và tính tự phát trong ý thức của chúng ta, khái niệm của Sartre nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xem xét các yếu tố hoàn cảnh và tình huống ảnh hưởng đến các phán đoán và lựa chọn đạo đức của chúng ta. Quan điểm này có thể đưa ra những hiểu biết có giá trị về sự phức tạp của việc ra quyết định có đạo đức và luân lý, có tính đến sự tương tác phức tạp giữa khả năng tự nhận thức trước khi phản ánh của chúng ta, các giá trị cá nhân và hoàn cảnh mà chúng ta thấy mình. Khái niệm của Sartre về tự-nhận thức tiền-phản xạ đã có tác động lâu dài đến lĩnh vực hiện tượng học và tiếp tục được thảo luận sâu rộng trong triết học đương đại xung quanh bản chất của ý thức và kinh nghiệm của con người. Bằng cách đưa ra một giải pháp thay thế cho khái niệm "cái tư-duy" của Descartes, tự-nhận thức tiền-phản xạ của Sartre thách thức những hiểu biết thông thường về sự tồn tại của con người và kêu gọi cách tiếp cận toàn diện, sắc thái hơn đối với nghiên cứu về ý thức. Việc nhấn mạnh vào tính tức thời, tính tự phát và mối liên hệ cơ bản giữa ý thức và thế giới mà tự-nhận thức tiền-phản xạ của Sartre đưa lên hàng đầu đã truyền cảm hứng cho một loạt các vấn đề và các cuộc tranh luận triết học. Chúng bao gồm các cuộc thảo luận về vai trò của Cái-Tôi trong trải nghiệm của con người, tầm quan trọng của nhận thức trong hoàn cảnh và tác động của bối cảnh đối với sự hiểu biết của chúng ta về bản thân và những Kẻ-Khác. Tự-nhận thức tiền-phản xạ của Sartre cũng có ảnh hưởng đáng kể đến nghiên cứu liên ngành, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm lý học, khoa học nhận thức và khoa học thần kinh. Bằng cách làm nổi bật vai trò của sự tự nhận thức không theo chủ đề, tiền-phản xạ trong trải nghiệm của chúng ta, khái niệm của Sartre đã mở đường cho những hướng nghiên cứu mới về bản chất của sự tự ý thức, nền tảng thần kinh của ý thức và các quá trình nhận thức hình thành nên sự gắn kết của chúng ta với thế giới. Hơn nữa, tự-nhận thức tiền-phản xạ đã có tác động đáng kể đến các ngành thực hành như tâm lý trị liệu, tư vấn và giáo dục. Nhận thức được tầm quan trọng của việc tham gia ngay lập tức, tự phát với thế giới, các học viên đã dựa trên những hiểu biết sâu sắc của Sartre để phát triển các phương pháp trị liệu và sư phạm nhằm thúc đẩy nhận thức về thời điểm hiện tại, chánh niệm và sự thể hiện bản thân đích thực. 3. Ý NIỆM VỀ HƯ VÔ Sự khám phá về hư vô của Sartre mang lại sự hiểu biết sâu sắc và đa sắc thái về sự tồn tại của con người vượt ra ngoài những quan điểm triết học truyền thống. Bằng cách nhấn mạnh vai trò của sự phủ định trong trải nghiệm của chúng ta, Sartre làm nổi bật sức mạnh sáng tạo và biến đổi nằm trong mỗi cá nhân, cũng như những hậu quả tiềm tàng của những lựa chọn và hành động của chúng ta. Khái niệm hư vô có ý nghĩa sâu rộng đối với các khía cạnh khác nhau của cuộc sống con người, chẳng hạn như đạo đức, luân lý và sự phát triển cá nhân. Quan niệm về hư vô của Sartre ngụ ý rằng các giá trị đạo đức và luân lý vốn không cố định hay tuyệt đối; thay vào đó, chúng phải tuân theo các lựa chọn và hành động của những cá nhân tạo ra và định hình họ thông qua sự tham gia của họ với thế giới. Sự hiểu biết về các giá trị và đạo đức này nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm cá nhân và tầm quan trọng của việc sống đích thực, phù hợp với niềm tin và niềm tin của chính mình. Ngoài ra, khái niệm hư vô của Sartre có ý nghĩa đối với sự hiểu biết của chúng ta về sự phát triển và trưởng thành cá nhân. Bằng cách thừa nhận khả năng phủ nhận các khía cạnh của thế giới và tạo ra các viễn kiến và bản sắc của riêng chúng ta, triết lý của Sartre khuyến khích các cá nhân tích cực tham gia vào cuộc sống của chính họ, đối mặt với những lo lắng hiện hữu và đưa ra những lựa chọn có ý thức phản ánh con người thật của họ. Sự nhấn mạnh vào quyền tự quyết và quyền tự quyết cá nhân này có thể đóng vai trò là chất xúc tác mạnh mẽ cho sự phát triển và biến đổi cá nhân, vì nó thúc đẩy ý thức trách nhiệm và quyền tự quyết đối với cuộc sống của mỗi người. Hơn nữa, khái niệm hư vô của Sartre đã gây được tiếng vang trong nhiều lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn như tâm lý học, xã hội học và nghệ thuật. Những hiểu biết sâu sắc của ông về vai trò của sự phủ định trong trải nghiệm của con người đã truyền cảm hứng cho những hướng tìm hiểu và thể hiện sáng tạo mới, khi các học giả cũng như nghệ sĩ tìm cách khám phá sự phức tạp của sự tồn tại của con người và sức mạnh biến đổi của sự lựa chọn và phủ định. Mối liên hệ giữa hư vô và tự do là chủ đề trung tâm trong triết học hiện sinh của Sartre. Bằng cách nhấn mạnh vai trò của sự phủ định trong trải nghiệm của con người, Sartre nhấn mạnh sức mạnh nội tại và trách nhiệm nằm trong mỗi cá nhân để định hình cuộc sống của chính họ. Khả năng phủ nhận các khía cạnh của thế giới là một lực lượng giải phóng, cho phép chúng ta khẳng định quyền tự chủ của mình và chống lại những áp lực và kỳ vọng mà xã hội, nền văn hóa hoặc các yếu tố bên ngoài khác có thể áp đặt lên chúng ta. Thông qua sự phủ định, chúng ta có thể đặt câu hỏi và bác bỏ các quan niệm, giá trị và niềm tin đã định sẵn, đồng thời tạo không gian cho các quan điểm và mong muốn của riêng chúng ta. Mối liên hệ giữa hư vô và tự do này có ý nghĩa sâu sắc đối với sự hiểu biết của chúng ta về quyền tự quyết cá nhân, trách nhiệm và tính xác thực. Khi chúng ta nhận ra khả năng của mình trong việc áp đặt sự phủ định của mỗi chúng ta vào thế giới, chúng ta phải đối mặt với nhận thức rằng chúng ta là người phân xử tối cao cho cuộc sống của chính mình. Nhận thức này đi kèm với gánh nặng trách nhiệm đáng kể, vì các lựa chọn và hành động của chúng ta có thể có tác động sâu sắc đến quá trình sống của chúng ta và cuộc sống của những người xung quanh chúng ta. Để sống đích thực và thực hiện quyền tự do của mình cách có trách nhiệm, điều cần thiết là chúng ta phải tích cực tham gia vào khả năng phủ nhận của mình và sử dụng nó để thông báo cho các lựa chọn và hành động của mình. Bằng cách làm như vậy, chúng ta có thể tạo ra con đường của riêng mình, không bị ràng buộc bởi những ảnh hưởng bên ngoài và được hướng dẫn bởi các giá trị và niềm tin của chính chúng ta. Quá trình tự quyết định này đòi hỏi phải liên tục suy ngẫm, tự nhận thức và lòng can đảm, khi chúng ta đối mặt với những bất trắc và thách thức cố hữu đi kèm với việc thực thi quyền tự do của chính mình. Cuối cùng, khái niệm hư vô của Sartre và mối liên hệ của nó với tự do đưa ra khuôn khổ mạnh mẽ để hiểu được sự phức tạp của sự tồn tại của con người và tiềm năng biến đổi cá nhân. Bằng cách thừa nhận vai trò của sự phủ định trong trải nghiệm của chúng ta và đón nhận sự tự do mà nó mang lại, chúng ta có thể cố gắng sống một cuộc sống đích thực, tự quyết phản ánh con người thật của chúng ta và những giá trị mà chúng ta yêu quý.  Khái niệm hư vô của Sartre, khi gắn liền với khái niệm trách nhiệm của con người, nhấn mạnh vai trò của mỗi cá nhân trong việc xác định hướng đi của cuộc đời họ và tác động của hành động của họ đối với Kẻ-Khác. Bằng cách nhấn mạnh khả năng phủ định và lựa chọn của chúng ta, triết học hiện sinh của Sartre làm nổi bật trách nhiệm to lớn mà chúng ta gánh vác khi định hướng sự tồn tại của mình. Khả năng giới thiệu hư vô vào thế giới của chúng ta cho phép chúng ta thoát khỏi những ràng buộc bên ngoài và chọn con đường của riêng mình. Với sự tự do này, chúng ta thừa nhận rằng chúng ta chịu trách nhiệm về hậu quả của những lựa chọn và hành động của mình. Tinh thần trách nhiệm này là một khía cạnh thiết yếu trong triết lý của Sartre, vì nó kêu gọi các cá nhân chịu trách nhiệm về quyết định của mình và đối mặt với hậu quả do hành động của mình gây ra. Việc Sartre tập trung vào trách nhiệm giải trình cá nhân thách thức quan điểm cho rằng cuộc sống của chúng ta chỉ được quyết định bởi các thế lực bên ngoài, chẳng hạn như số phận hoặc kỳ vọng của xã hội. Thay vào đó, triết học hiện sinh của ông khẳng định rằng mỗi cá nhân có quyền định hình số phận của mình thông qua việc thực hiện quyền tự do và những lựa chọn mà họ đưa ra. Quan điểm này khuyến khích các cá nhân nắm lấy trách nhiệm và làm chủ cuộc sống của họ, vì họ là kiến trúc sư chính cho những trải nghiệm của chính họ và thế giới mà họ đang sống. 4. TỰ DO VÀ TÍNH XÁC THỰC   Cách tiếp cận hiện tượng học của Sartre nhấn mạnh vào các khái niệm về tự do và tính xác thực như những khía cạnh trung tâm của sự tồn tại của con người. Những khái niệm này đan xen sâu sắc và đóng một vai trò quan trọng trong việc hiểu bản chất của các lựa chọn, hành động và cuối cùng là cuộc sống của chúng ta. Tự do, như Sartre nhìn nhận, là khả năng lựa chọn và tạo ra các viễn kiến, giá trị và bản sắc riêng của chúng ta. Sự hiểu biết về tự do này không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của những ràng buộc bên ngoài mà là khả năng chủ động định hình cuộc sống của chúng ta theo mong muốn và nguyện vọng của chúng ta. Tuy nhiên, sự tự do này đi kèm với ý thức trách nhiệm sâu sắc đối với các lựa chọn, hành động và hậu quả của chúng. Sartre tin rằng bởi vì chúng ta được tự do đưa ra quyết định của riêng mình, nên chúng ta cũng chịu trách nhiệm về kết quả của những quyết định đó và phải chịu ảnh hưởng của những tác động của chúng. Mặt khác, tính xác thực là quá trình nắm lấy và thực hiện quyền tự do của chúng ta bằng cách đưa ra những lựa chọn phản ánh chân thực con người thật của chúng ta, thay vì tuân theo áp lực xã hội hoặc kỳ vọng bên ngoài. Việc thực sự sống đời sống của chính mình liên quan đến việc thừa nhận quyền tự do và trách nhiệm của chúng ta, đồng thời cố gắng đưa ra những lựa chọn chân chính, tự quyết phù hợp với các giá trị và niềm tin sâu sắc nhất của chúng ta. Tính xác thực đòi hỏi lòng dũng cảm và sự tự nhận thức, vì nó đòi hỏi phải đối mặt với những điều không chắc chắn và lo lắng đi kèm với quyền tự do lựa chọn con đường của chính mình. Sartre tập trung vào tự do và tính xác thực có ý nghĩa quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về sự tồn tại của con người và ý nghĩa của cuộc sống. Bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền tự chủ và trách nhiệm cá nhân, Sartre khuyến khích chúng ta tham gia vào một quá trình liên tục khám phá bản thân và tự hiện thực hóa. Quá trình này liên quan đến việc phản ánh các giá trị, mong muốn và nguyện vọng của chúng ta, cũng như những lựa chọn mà chúng ta đưa ra để theo đuổi những mục tiêu đó. Hơn nữa, sự nhấn mạnh của Sartre về tính xác thực làm nổi bật tầm quan trọng của việc sống phù hợp với con người thật của chúng ta và đưa ra những lựa chọn phù hợp với các giá trị cá nhân của chúng ta, thay vì chỉ đơn giản là tuân theo các chuẩn mực hoặc kỳ vọng của xã hội. Quan điểm này thách thức chúng ta xem xét nghiêm túc cuộc sống của mình và những lựa chọn chúng ta đưa ra, đảm bảo rằng hành động của chúng ta phản ánh chân thực chúng ta là ai và chúng ta tin tưởng vào điều gì. Hiện tượng học của Sartre coi trọng các khái niệm về tự do và tính xác thực như những khía cạnh cơ bản của sự tồn tại của con người. Bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của lựa chọn cá nhân, trách nhiệm và quyền tự quyết, Sartre đưa ra một khuôn khổ mạnh mẽ để hiểu được sự phức tạp của cuộc sống con người và tầm quan trọng của việc sống đích thực. Những hiểu biết sâu sắc của ông tiếp tục truyền cảm hứng và đưa ra thông tin cho triết học đương đại, đồng thời đưa ra những quan điểm có giá trị về thân phận con người, khuyến khích chúng ta đón nhận tự do và cố gắng sống đúng với con người thật của mình. 5. CÁCH NHÌN VÀ KẺ-KHÁC  Một đóng góp quan trọng khác trong hiện tượng học của Sartre là phân tích thấu đáo của ông về các mối quan hệ giữa các cá nhân và vai trò của Kẻ-Khác trong trải nghiệm của chúng ta. Sự kiểm tra của Sartre về động lực giữa cái tôi và Kẻ-Khác đã có tác động sâu sắc đến sự hiểu biết của chúng ta về sự tương tác của con người và sự phức tạp của sự tồn tại xã hội. Trong ví dụ nổi tiếng về "cái nhìn", Sartre đi sâu vào trải nghiệm bị Kẻ-Khác nhìn thấy, lập luận rằng cái nhìn của Kẻ-Khác biến chúng ta thành một đối tượng trong ý thức của họ. Sự khách quan hóa này có thể gợi lên cảm giác xấu hổ và ý thức về bản thân, khi chúng ta nhận thức sâu sắc về bản thân qua con mắt của Kẻ-Khác. Chúng ta không còn chỉ là một chủ thể trải nghiệm thế giới mà còn là một đối tượng được trải nghiệm bởi những Kẻ-Khác. Tuy nhiên, cái nhìn của Kẻ-Khác cũng tiết lộ sự tự do cơ bản của chúng ta, khi chúng ta nhận ra rằng những lựa chọn và hành động của chính mình có thể ảnh hưởng đến cách Kẻ-Khác nhìn nhận chúng ta. Sự công nhận này mang lại cho chúng tôi cơ hội khẳng định quyền tự quyết của mình và định hình các tương tác của chúng tôi với những người xung quanh. Đối với Sartre, các mối quan hệ giữa các cá nhân rất phức tạp và mơ hồ, được đặc trưng bởi một cuộc đấu tranh liên tục để được công nhận và tự do. Khi tương tác với Kẻ-Khác, chúng ta đối mặt với cả tính chủ quan của chính mình và tính chủ quan của Kẻ-Khác, điều này có thể dẫn đến nhiều kết quả khác nhau. Một mặt, sự tham gia này có thể thúc đẩy sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, khi chúng ta học cách đánh giá cao quan điểm và kinh nghiệm của Kẻ-Khác. Mặt khác, nó cũng có thể làm nảy sinh xung đột và xa lánh, khi chúng ta vật lộn với những thách thức trong việc điều hướng mong muốn và nhu cầu của bản thân trong bối cảnh tương tác xã hội. Phân tích của Sartre về các mối quan hệ giữa các cá nhân nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đồng cảm và tự nhận thức trong việc nuôi dưỡng các mối quan hệ lành mạnh, có ý nghĩa với những Kẻ-Khác. Bằng cách thừa nhận tính chủ quan của Kẻ-Khác và nhận ra tác động của các lựa chọn và hành động của chúng ta đối với trải nghiệm của họ, chúng ta có thể cố gắng tạo ra các mối quan hệ chân thực và nhân ái hơn. Khám phá của Sartre về các mối quan hệ giữa các cá nhân và vai trò của Kẻ-Khác trong kinh nghiệm của chúng ta thể hiện một đóng góp đáng kể cho hiện tượng học. Bằng cách xem xét các động lực phức tạp giữa bản thân và Kẻ-Khác, Sartre đưa ra những hiểu biết có giá trị về bản chất của sự tương tác giữa con người và những thách thức của sự tồn tại xã hội. Tác phẩm của ông đã có tác động lâu dài đến sự hiểu biết của chúng ta về các mối quan hệ giữa các cá nhân và tiếp tục đưa ra thông tin cho các cuộc thảo luận đương thời xung quanh sự đồng cảm, lòng trắc ẩn và tầm quan trọng của việc nhận ra tính chủ quan của Kẻ-Khác. 6. PHÂN TÂM HỌC HIỆN SINH Trong tác phẩm sau này của mình, Sartre đã phát triển một phương pháp độc đáo gọi là phân tâm học hiện sinh, nhằm mục đích hiểu được động cơ và lựa chọn của các cá nhân trong hoàn cảnh tồn tại của họ. Lấy cảm hứng từ cả hiện tượng học và phân tâm học, phương pháp này ưu tiên những trải nghiệm chủ quan của cá nhân và đi sâu vào những mối quan tâm tồn tại trong vô thức đang thúc đẩy hành vi của họ.  Phân tâm học hiện sinh tìm cách tiết lộ "viễn kiến cơ bản" của cá nhân, đại diện cho mục tiêu hoặc mục đích cốt lõi định hướng hành động của họ và truyền đạt ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Viễn kiến cơ bản này có thể bao gồm một loạt các nguyện vọng, chẳng hạn như phát triển cá nhân, tự thực hiện hoặc theo đuổi các mục tiêu hoặc giá trị cụ thể. Bằng cách xác định viễn kiến cơ bản, phân tâm học hiện sinh có thể mang lại sự hiểu biết sâu sắc hơn về động cơ của cá nhân và tầm quan trọng của hành động của họ trong bối cảnh hoàn cảnh hiện sinh của họ.  Để khám phá viễn kiến cơ bản, phân tâm học hiện sinh xem xét các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của cá nhân, chẳng hạn như sự lựa chọn, các giá trị và mối quan hệ của họ. Bằng cách khám phá những khía cạnh này, phân tâm học hiện sinh tiết lộ những lo lắng, ham muốn và xung đột hiện sinh hình thành nên hành vi của cá nhân. Những hiểu biết sâu sắc này có thể mang lại sự hiểu biết sâu sắc hơn về bối cảnh tâm lý của cá nhân và đưa ra hướng dẫn có giá trị để giải quyết các mối quan tâm hiện hữu làm nền tảng cho hành động của họ. Ví dụ: một cá nhân liên tục tìm kiếm sự xác nhận từ những người khác có thể có một viễn kiến cơ bản cơ bản tập trung vào việc đạt được sự công nhận hoặc chấp nhận. Thông qua phân tâm học hiện sinh, cá nhân này có thể nhận thức rõ hơn về những lo lắng hiện sinh của họ, chẳng hạn như sợ bị từ chối hoặc mong muốn được chấp thuận và phát triển sự hiểu biết sâu sắc hơn về cách những mối quan tâm này ảnh hưởng đến lựa chọn và hành động của họ. Phân tâm học hiện sinh của Sartre đóng góp đáng kể cho lĩnh vực tâm lý học và sự hiểu biết rộng hơn về động cơ của con người. Bằng cách kết hợp các mối quan tâm hiện sinh vào phân tích hành vi cá nhân, cách tiếp cận của Sartre mang đến một góc nhìn toàn diện và sắc thái hơn về sự tương tác phức tạp giữa trải nghiệm chủ quan, giá trị cá nhân và những mối lo lắng hiện sinh. Phương pháp này đã có ảnh hưởng trong việc định hình sự phát triển của các liệu pháp trị liệu tâm lý dựa trên phân tâm học hiện sinh, đồng thời tạo cảm hứng cho các cuộc thảo luận đương đại xung quanh bản chất của động cơ, sự lựa chọn và tìm kiếm ý nghĩa của con người trong cuộc sống.  KẾT LUẬN Những đóng góp của Sartre cho hiện tượng học thực sự mang tính đột phá và có ảnh hưởng, để lại tác động lâu dài đến bối cảnh triết học của thế kỷ XX và sau đó. Những ý tưởng và cách tiếp cận sáng tạo của ông đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sự tồn tại của con người, ý thức và những điều phức tạp của thân phận con người. Sự nhấn mạnh của Sartre về tính chủ đích đã giúp làm rõ mối quan hệ giữa ý thức và các đối tượng mà nó hướng tới, đưa ra một góc nhìn sắc thái hơn về "tính ý hướng" của ý thức. Khám phá của ông về tự-nhận thức tiền-phản xạ đã nhấn mạnh tính tức thời và tính tự phát của ý thức, đồng thời thách thức các quan niệm truyền thống của Descartes về cái “Tôi tư duy”. Khái niệm hư vô do Sartre giới thiệu nêu bật khả năng phủ nhận của con người và mối liên hệ của nó với tự do, trong khi khái niệm về tự do và tính xác thực của ông nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền tự quyết và trách nhiệm cá nhân trong cuộc sống của chúng ta. Hơn nữa, phân tích của Sartre về các mối quan hệ giữa các cá nhân và vai trò của Kẻ-Khác đã làm sáng tỏ sự phức tạp trong tương tác của con người và những thách thức mà chúng ta gặp phải trong việc điều hướng sự tồn tại xã hội. Sự xem xét của ông về động lực giữa cái tôi và Kẻ-Khác đã đưa ra những hiểu biết sâu sắc có giá trị về bản chất của sự thừa nhận, sự khách quan hóa và cuộc đấu tranh giành tự do trong các mối quan hệ của chúng ta./. (còn tiếp)  
  • MERLEAU-PONTY VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP NỔI BẬT CHO HIỆN TƯỢNG HỌC
    29/ 04/ 2023
    HIỆN TƯỢNG HỌC LÀ GÌ (4): MERLEAU-PONTY VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP NỔI BẬT CHO HIỆN TƯỢNG HỌC Nguyễn Trung Kiên tổng hợp (Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3)     Maurice Merleau-Ponty sinh ngày 14 tháng 3 năm 1908 tại thị trấn Rochefort-sur-Mer đẹp như tranh vẽ thuộc miền Tây Nam nước Pháp. Ông lớn lên trong gia đình trung lưu và trân trọng học vấn. Sau khi hoàn thành xuất sắc chương trình giáo dục trung học, Merleau-Ponty được nhận vào trường École Normale Supérieure rất được kính trọng ở Paris. Trường đại học danh giá này, nổi tiếng về đào tạo học thuật nghiêm ngặt và quy trình tuyển sinh chọn lọc, đã thu hút những bộ óc thông minh nhất trên khắp nước Pháp. Trong hội trường của École Normale Supérieure, Merleau-Ponty thấy mình được bao quanh bởi một cộng đồng trí thức sôi nổi, nơi đã thách thức và truyền cảm hứng cho ông tinh chỉnh các ý tưởng và cách tiếp cận triết học của riêng mình. Tại École Normale Supérieure, ông nghiên cứu các tác phẩm của một số nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất trong lịch sử triết học. Trong số này, ông đặc biệt bị thu hút bởi những ý tưởng của Edmund Husserl, nhà sáng lập tiên phong của hiện tượng học, và Martin Heidegger, một nhân vật hàng đầu của chủ nghĩa hiện sinh. Việc tiếp xúc với những triết gia đột phá này và truyền thống trí tuệ tương ứng của họ sẽ có tác động sâu sắc đến quỹ đạo triết học của chính Merleau-Ponty, định hình những mối quan tâm cốt lõi của ông và hướng dẫn sự phát triển tiếng nói triết học độc đáo của ông. Hiện tượng học của Husserl, tập trung vào các cấu trúc của ý thức và bản chất của kinh nghiệm sống, đã gây được tiếng vang sâu sắc với Merleau-Ponty. Ông bị hấp dẫn bởi phương pháp "gác lại các phán đoán" hay "epoché" của Husserl, nhằm xem xét các hiện tượng khi chúng tự hiện diện trong ý thức. Cách tiếp cận này cho phép Merleau-Ponty nghiên cứu sâu hơn về sự phức tạp của nhận thức và kinh nghiệm, cuối cùng hình thành lập trường triết học của chính ông về những vấn đề này. Tương tự, chủ nghĩa hiện sinh của Heidegger, được đặc trưng bởi sự nhấn mạnh vào sự tồn tại của cá nhân, câu hỏi về Hữu thể, và tầm quan trọng của cuộc hiện sinh, đã cung cấp cho Merleau-Ponty một nền tảng để khám phá thân phận con người và mối quan hệ giữa thân phận con người và thế giới. Những ý tưởng của Heidegger sau này đã truyền cảm hứng cho những khám phá của chính Merleau-Ponty về các chủ đề hiện sinh, chẳng hạn như cơ thể sống, tự do và vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành trải nghiệm của con người. Cùng với những trí thức trẻ đầy tham vọng khác, đáng chú ý nhất là Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir, những mối quan tâm chung và sự tò mò trí tuệ giữa những triết gia trẻ tuổi này sẽ tạo nên những mối quan hệ sẽ phát triển thành tình bạn lâu dài và quan hệ quan trọng. Khi họ thăng tiến trong sự nghiệp cá nhân, bộ ba nổi lên như những nhân vật trung tâm trong phong trào hiện sinh ở Pháp, để lại dấu ấn không thể phai mờ trong bối cảnh trí thức thời bấy giờ. Merleau-Ponty, de Beauvoir và Sartre cùng nhau tham gia vào các cuộc thảo luận triết học căng thẳng, khám phá những ý tưởng phức tạp và thách thức những suy nghĩ và niềm tin của nhau. Họ thường xuyên phê bình công việc của nhau, đưa ra những hiểu biết và đề xuất có giá trị để cải thiện, thúc đẩy bầu không khí hợp tác sẽ chứng tỏ sự sống còn đối với sự phát triển triết học của họ. Trong suốt sự nghiệp của mình, bộ ba này đã làm việc trong nhiều dự án khác nhau, từ các ấn phẩm riêng lẻ đến các nỗ lực tập thể như đồng biên tập tạp chí đầy ảnh hưởng "Les Temps Modernes". Tình bạn tri thức giữa Merleau-Ponty, de Beauvoir và Sartre càng được tăng cường khi họ cùng tiếp xúc với hiện tượng học và chủ nghĩa hiện sinh. Sự theo đuổi triết học của họ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các tác phẩm của Edmund Husserl và Martin Heidegger, khiến họ khám phá bản chất của sự tồn tại, ý thức và tự do của con người. Tuy nhiên, sự gắn bó của họ với triết học không chỉ giới hạn ở hai phong trào này. Quá trình giáo dục của Merleau-Ponty tại École Normale Supérieure đã giúp ông tiếp xúc với nhiều quan điểm triết học, cho phép ông phát triển sự hiểu biết toàn diện về triết học. Ngoài Husserl và Heidegger, Merleau-Ponty đã tiếp xúc với nhiều nhà triết học như Plato và Aristotle, xem xét các ý tưởng nền tảng của họ và tham gia vào các câu hỏi vượt thời gian mà họ đặt ra. Merleau-Ponty cũng nghiên cứu tác phẩm của những nhân vật đương đại hơn, bao gồm Henri Bergson, người mà sự nhấn mạnh vào trực giác và thời gian sẽ để lại ấn tượng lâu dài trong suy nghĩ của ông; Immanuel Kant, người vật lộn với bản chất của tri thức và đạo đức con người; và Georg Wilhelm Friedrich Hegel, người có cách tiếp cận biện chứng với lịch sử và các ý tưởng sẽ giúp định hình sự hiểu biết của Merleau-Ponty về quá trình trải nghiệm của con người. Khi các nghiên cứu của Merleau-Ponty tiến triển và các ý tưởng triết học của ông trưởng thành, ông ngày càng say mê triết học về nhận thức. Ông đã cống hiến hết mình để khám phá những điều phức tạp và sắc thái trong cách con người trải nghiệm thế giới xung quanh họ, xem xét mối quan hệ giữa người nhận thức, cơ thể của họ và thế giới bên ngoài. Sự tập trung vào nhận thức và trải nghiệm của con người sẽ vẫn là chủ đề trung tâm trong công việc của ông trong suốt sự nghiệp của mình, khiến ông có những đóng góp đáng kể cho nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh và khoa học về nhận thức. Mối quan tâm của Merleau-Ponty đối với nhận thức đã khiến ông xem xét khái niệm cơ thể, tức là ý tưởng cho rằng cơ thể chúng ta đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình trải nghiệm và nhận thức của chúng ta về thế giới. Ông lập luận rằng cơ thể chúng ta không chỉ là công cụ thụ động mà còn là những tác nhân tham gia tích cực trong việc xây dựng kinh nghiệm của chúng ta. Sự nhấn mạnh về vai trò của cơ thể trong nhận thức sẽ truyền cảm hứng cho những ý tưởng đột phá về bản chất trải nghiệm của con người, ảnh hưởng sâu sắc đến sự hiểu biết của chúng ta về sự tương tác giữa các khía cạnh vật chất và tinh thần trong sự tồn tại của chúng ta.  Sau khi hoàn thành chương trình học tại École Normale Supérieure, Merleau-Ponty theo đuổi học vị tiến sĩ và năm 1938, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về triết học về tri giác. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của một sự nghiệp học thuật lừng lẫy kéo dài vài thập kỷ. Trong suốt sự nghiệp của mình, Merleau-Ponty đã giữ nhiều vị trí khác nhau tại các trường đại học của Pháp, bao gồm Đại học Lyon và Sorbonne. Danh tiếng và tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của ông trong lĩnh vực triết học cuối cùng đã dẫn đến việc ông được bổ nhiệm làm giáo sư tại trường Collège de France danh tiếng, nơi ông sẽ tiếp tục khám phá về nhận thức, cơ thể và ngôn ngữ.  Trong suốt cuộc đời mình, Merleau-Ponty vẫn kiên định cống hiến cho việc khám phá trải nghiệm của con người, được thúc đẩy bởi niềm đam mê triết học được khơi dậy trong những năm đầu đời của ông tại Lycée Louis-le-Grand và được nuôi dưỡng thêm trong thời gian ông học tại École Normale Supérieure . Cam kết sâu sắc của ông trong việc tìm hiểu sự phức tạp của nhận thức, cơ thể và ngôn ngữ đã mở rộng ra ngoài lĩnh vực triết học và nghiên cứu liên ngành, khi ông tham gia với các học giả trong các lĩnh vực như tâm lý học, ngôn ngữ học và nghệ thuật. CÁC TÁC PHẨM TRIẾT HỌC Các tác phẩm triết học của Merleau-Ponty có thể được chia thành nhiều giai đoạn. Các tác phẩm ban đầu của ông tập trung vào triết lý về nhận thức và phê bình “chủ nghĩa hành vi chuẩn mực” và phân tâm học. Ấn phẩm lớn đầu tiên của ông, "The Structure of Behavior" (1942), lập luận về cách tiếp cận toàn diện để hiểu hành vi của con người, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm tra toàn bộ trải nghiệm của một cá nhân thay vì quy giản chúng thành các thành phần tâm lý hoặc sinh lý riêng lẻ. Trong "Hiện tượng học về tri giác" (1945), tác phẩm nổi tiếng nhất của Merleau-Ponty, dựa trên truyền thống hiện tượng học, ông lập luận rằng nhận thức không phải là sự tiếp nhận thụ động dữ liệu giác quan mà là một quá trình chủ động, được thể hiện trong đó người nhận thức có liên quan mật thiết. Sự nhấn mạnh vào bản chất của nhận thức như là quá trình phụ thuộc vào cơ thể đã khiến Merleau-Ponty bác bỏ thuyết nhị nguyên thân-tâm của Descartes và đề xuất một cách hiểu mới về mối quan hệ giữa bản thân và thế giới. Trọng tâm triết học của Merleau-Ponty là khái niệm "cơ thể sống", mà ông dùng để mô tả quan điểm cho rằng cơ thể chúng ta không chỉ đơn thuần là một đối tượng vật chất mà là một thực thể chủ quan, trải nghiệm định hình nhận thức của chúng ta về thế giới. Bằng cách nêu bật vai trò của cơ thể trong nhận thức, Merleau-Ponty đã tìm cách chứng minh mối liên hệ chặt chẽ giữa thể chất và kinh nghiệm của chúng ta về thực tại. Ý tưởng này đã có tác động sâu sắc đến nhiều ngành khác nhau, bao gồm tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học và nghệ thuật, truyền cảm hứng cho những cách tiếp cận mới để hiểu kinh nghiệm của con người. Ngoài việc tập trung vào cơ thể sống, Merleau-Ponty còn nhấn mạnh tính ưu việt của nhận thức trong triết học của mình. Ông lập luận rằng tất cả kiến thức cuối cùng đều dựa trên kinh nghiệm nhận thức và nhận thức đó không chỉ là sự phản ánh đơn giản về thế giới mà là một quá trình phức tạp, sáng tạo, định hình và biến đổi cách chúng ta trải nghiệm thực tế. Điều này khiến ông phát triển khái niệm "sự giao thoa", ám chỉ sự đan xen giữa cơ thể và thế giới trong một quá trình liên tục ảnh hưởng lẫn nhau. Các tác phẩm sau này của Merleau-Ponty chuyển sang khám phá vai trò của ngôn ngữ và cách diễn đạt trong việc hình thành trải nghiệm của con người. Ông tin rằng ngôn ngữ không chỉ là một hệ thống biểu diễn phản ánh hiện thực mà còn là phương tiện để diễn đạt và tiết lộ kinh nghiệm sống của chúng ta. Việc tập trung vào các khía cạnh biểu cảm của ngôn ngữ đã khiến ông khám phá tác phẩm của các nhà triết học khác, chẳng hạn như Ludwig Wittgenstein và Ferdinand de Saussure, và khám phá mối liên hệ giữa ngôn ngữ, nhận thức và nghệ thuật. Một trong những tác phẩm lớn cuối cùng của ông, "The Visible and the Invisible" [“Cái hữu hình và cái vô hình”] (1964), được xuất bản sau khi ông qua đời, đi sâu hơn vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ, nhận thức và bản chất của thực tại. Trong tác phẩm này, Merleau-Ponty đã đề xuất khái niệm "xác thịt" như một cách để mô tả mối liên kết cơ bản của tất cả chúng sinh và thế giới. Ý tưởng này đã được hiểu là một sự suy nghĩ lại triệt để về sự phân đôi chủ thể-đối tượng truyền thống và kêu gọi một sự hiểu biết toàn diện hơn về sự tồn tại của con người. Trong suốt sự nghiệp của mình, các tác phẩm của Merleau-Ponty được đánh dấu bằng một cam kết sâu sắc trong việc khám phá trải nghiệm của con người trong tất cả sự phức tạp của nó. Ông đã tìm cách phát triển lý thuyết triết học nhằm nắm bắt được sự phong phú trong thực tế sống của chúng ta, vượt qua thuyết nhị nguyên truyền thống và chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau của tâm trí, cơ thể và thế giới. Ý tưởng của ông đã có tác động lâu dài đến nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần hiểu biết sâu sắc hơn về tình trạng của con người. Đáng buồn thay, Merleau-Ponty đột ngột qua đời vào ngày 3 tháng 5 năm 1961, ở tuổi 53. Cái chết không đúng lúc của ông khiến nhiều ý tưởng của ông còn dang dở, và di sản triết học của ông tiếp tục là chủ đề tranh luận và khám phá giữa các học giả. Bất chấp cuộc đời ngắn ngủi, tác phẩm của Merleau-Ponty đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong triết học thế kỷ XX và đã ảnh hưởng đến nhiều thế hệ nhà tư tưởng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Những ý tưởng của ông về nhận thức, hiện thân và ngôn ngữ tiếp tục thách thức và truyền cảm hứng cho các học giả, giúp định hình sự hiểu biết của chúng ta về trải nghiệm của con người theo những cách sâu sắc và lâu dài. HIỆN TƯỢNG HỌC VÀ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC CỦA MERLEAU-PONTY  Sự phát triển triết học của Merleau-Ponty bắt nguồn sâu xa từ truyền thống hiện tượng học, lấy cảm hứng đáng kể từ các công trình đột phá của Edmund Husserl, người sáng lập ra hiện tượng học, cũng như các nhà hiện tượng học đáng chú ý khác như Martin Heidegger và Max Scheler. Hiện tượng học, với tư cách là một phong trào triết học, đã tìm cách điều tra một cách có hệ thống các cấu trúc của ý thức con người và những trải nghiệm chủ quan tạo nên kết cấu của thực tế của đời sống con người. Bằng cách xem xét những trải nghiệm này ở dạng trực tiếp nhất của chúng, các nhà hiện tượng học sẽ khám phá những khía cạnh thiết yếu của sự tồn tại của con người, vốn thường bị che khuất bởi các cấu trúc và giả định lý thuyết. Sự gắn kết của Merleau-Ponty với hiện tượng học đã khiến ông tập trung đặc biệt vào vai trò của nhận thức trong việc định hình kinh nghiệm của con người. Ông tin rằng nhận thức không phải là một quá trình thụ động tiếp nhận các kích thích bên ngoài, mà là một sự tham gia tích cực, diễn giải với thế giới xung quanh chúng ta. Sự hiểu biết về nhận thức này đã thách thức các lý thuyết phổ biến trong tâm lý học và triết học, đặc biệt là các mô hình thống trị của “chủ nghĩa hành vi chuẩn mực” và phân tâm học. Trong tác phẩm quan trọng đầu tiên của mình, "The Structure of Behavior" [“Cấu trúc của hành vi”] (1942), Merleau-Ponty đã xem xét một cách nghiêm túc các giả định làm cơ sở cho cả “chủ nghĩa hành vi chuẩn mực” và phân tâm học, lập luận rằng không cách tiếp cận nào có thể giải thích thỏa đáng cho sự phức tạp và phong phú của trải nghiệm con người. “chủ nghĩa hành vi chuẩn mực”, với sự nhấn mạnh vào các hành động có thể quan sát được và điều kiện môi trường, đã không nhận ra tầm quan trọng của trải nghiệm chủ quan và các cấu trúc bên trong của ý thức. Mặt khác , phân tâm học có xu hướng giảm trải nghiệm của con người thành một tập hợp các ham muốn và ham muốn vô thức, bỏ qua vai trò của nhận thức và bản chất hiện thân của các tương tác của chúng ta với thế giới. Thay vì những cách tiếp cận giản lược này, Merleau-Ponty đã đề xuất một khuôn khổ toàn diện để hiểu hành vi của con người, một khuôn khổ thừa nhận tác động qua lại giữa nhận thức, nhận thức và hành động. Ông lập luận rằng hành vi của con người không thể được hiểu một cách tách biệt khỏi những trải nghiệm nhận thức thông báo và hướng dẫn nó, cũng như không thể tách rời nó khỏi bối cảnh rộng lớn hơn của sự tồn tại của cá nhân. Quan điểm này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tính đến toàn bộ trải nghiệm của con người, từ những tiếp xúc nhận thức cơ bản nhất với thế giới đến sự phức tạp của các tương tác xã hội và thực hành văn hóa.  Bằng cách ủng hộ cách tiếp cận toàn diện hơn để hiểu hành vi con người, công trình của Merleau-Ponty đã giúp mở đường cho một thế hệ nghiên cứu liên ngành mới vượt qua ranh giới của các ngành học thuật truyền thống. Ý tưởng của ông tiếp tục truyền cảm hứng cho các học giả trong các lĩnh vực như tâm lý học, xã hội học và nhân chủng học, những người tìm cách phát triển sự hiểu biết sâu sắc hơn về nhiều yếu tố góp phần tạo nên bản chất đa dạng của trải nghiệm con người.  CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ CƠ THỂ TRONG TRIẾT HỌC CỦA MERLEAU-PONTY  Tác phẩm nổi tiếng nhất của Merleau-Ponty, "Hiện tượng học về tri giác" (1945), được xây dựng dựa trên và phát triển các khái niệm được giới thiệu trong các tác phẩm trước đó của ông, củng cố địa vị của ông như một nhân vật trung tâm trong chủ nghĩa hiện sinh. Phong trào triết học này, xuất hiện ở châu Âu vào đầu thế kỷ XX, được đặc trưng bởi sự tập trung vào sự tồn tại của cá nhân, tự do cá nhân và trải nghiệm chủ quan của cuộc sống. Những đóng góp của Merleau-Ponty cho chủ nghĩa hiện sinh bắt nguồn sâu xa từ các nghiên cứu hiện tượng học của ông, đặc biệt là phân tích mang tính đột phá của ông về nhận thức.  Trong "Hiện tượng học về tri giác", Merleau-Ponty lập luận rằng nhận thức không phải là sự tiếp nhận thụ động các dữ liệu giác quan; thay vào đó, nó là một quá trình tích cực, năng động, trong đó người nhận thức tích cực tương tác với môi trường của họ. Quan điểm này đã thách thức thuyết nhị nguyên Descartes đang thịnh hành, vốn tách biệt tâm trí và cơ thể thành những thực thể riêng biệt, với tâm trí vượt trội và độc lập với thế giới vật chất. Tác phẩm của Merleau-Ponty nhấn mạnh bản chất hiện thân của nhận thức, làm nổi bật vai trò quan trọng mà thể chất của chúng ta đóng trong việc hình thành trải nghiệm của chúng ta.  Theo Merleau-Ponty, cơ thể là một phần không thể thiếu trong trải nghiệm tri giác, vì nó đóng vai trò là phương tiện chính để chúng ta tương tác với thế giới xung quanh. Cảm giác và chuyển động cơ thể của chúng ta là không thể thiếu đối với nhận thức của chúng ta, cung cấp cho chúng ta một góc nhìn độc đáo và kết nối trực tiếp với môi trường xung quanh. Sự nhấn mạnh của Merleau-Ponty về hiện thân đã khiến ông khám phá nhiều cách khác nhau mà sự hiện diện cơ thể của chúng ta ảnh hưởng đến nhận thức của chúng ta, chẳng hạn như vai trò của nhận thức không gian, quyền sở hữu và nhận thức của người khác.  Khi làm như vậy, Merleau-Ponty đã tìm cách thu hẹp khoảng cách giữa các khía cạnh chủ quan và khách quan của trải nghiệm, chứng minh rằng nhận thức của chúng ta luôn nằm trong bối cảnh của sự tồn tại hiện thân của chúng ta. Bằng cách thừa nhận vai trò của cơ thể trong việc hình thành trải nghiệm của chúng ta, công việc của Merleau-Ponty đã mở ra những con đường mới để hiểu mối quan hệ phức tạp giữa bản thân, cơ thể và thế giới. Hơn nữa, sự nhấn mạnh của Merleau-Ponty về cơ thể có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào hiện sinh rộng lớn hơn. Bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ thể sống đối với sự trải nghiệm, tác phẩm của ông đã mở rộng các mối quan tâm của chủ nghĩa hiện sinh vượt ra ngoài lĩnh vực tâm lý hoặc trí tuệ thuần túy, đặt chúng vững chắc trong bối cảnh cuộc hiện sinh gắn chặt với cơ thể của chúng ta. Việc tập trung vào sự tương tác giữa chủ nghĩa hiện sinh và cơ thể đã truyền cảm hứng cho nhiều nhà triết học và học giả sau này, những người đã tìm cách khám phá và phát triển hơn nữa mối liên hệ giữa hai lĩnh vực nghiên cứu này.  TÍNH ƯU VIỆT CỦA TRI GIÁC Khía cạnh trung tâm trong triết học của Merleau-Ponty là sự nhấn mạnh của ông về tính ưu việt của tri giác, điều khẳng định rằng tất cả kiến thức cuối cùng đều bắt nguồn từ kinh nghiệm tri giác. Nguyên tắc cơ bản này đã hướng dẫn phần lớn công việc của ông và khiến ông thách thức các truyền thống triết học lâu đời, chẳng hạn như thuyết nhị nguyên cơ thể-tâm trí Descartes đặt ra sự tách biệt nghiêm ngặt giữa tâm trí suy nghĩ và cơ thể vật chất. Thay vào đó, Merleau-Ponty tìm cách phát triển sự hiểu biết mới về mối quan hệ giữa cơ thể và thế giới, mối quan hệ thừa nhận sự tương tác phức tạp giữa trải nghiệm hiện thân của chúng ta và môi trường xung quanh.  Bằng cách tập trung vào trải nghiệm tri giác, Merleau-Ponty nhằm mục đích chứng minh rằng sự hiểu biết của chúng ta về thế giới không chỉ bắt nguồn từ suy nghĩ trừu tượng hoặc khái niệm trí tuệ, mà còn dựa trên những trải nghiệm cụ thể, sống động của cơ thể chúng ta khi chúng tương tác với môi trường. Ông tin rằng tri giác của chúng ta không thụ động hay tĩnh tại, mà là những quá trình năng động được định hình bởi thể chất, lịch sử của chúng ta và bối cảnh mà chúng ta tìm thấy chính mình. Quan điểm này cho phép ông nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ thể với tư cách là một người tham gia tích cực vào việc xây dựng ý nghĩa và hình thành tri thức.  Từ chối thuyết nhị nguyên thân-tâm của Descartes, Merleau-Ponty đã đề xuất một cách tiếp cận toàn diện hơn để hiểu mối quan hệ giữa cơ thể và thế giới. Ông tin rằng cơ thể và thế giới được liên kết chặt chẽ với nhau trong một quá trình đồng cấu tạo liên tục, nghĩa là chúng cùng định hình và thông báo cho nhau. Khái niệm này, mà ông gọi là “sự giao thoa” ("chiasm"), nhấn mạnh ý tưởng rằng trải nghiệm của chúng ta luôn gắn liền với bối cảnh rộng lớn hơn và có mối liên hệ mật thiết với thế giới xung quanh chúng ta.  Sự nhấn mạnh vào tính ưu việt của nhận thức và mối liên hệ lẫn nhau giữa cơ thể và thế giới có ý nghĩa sâu rộng đối với sự hiểu biết của chúng ta về trải nghiệm của con người. Bằng cách tập trung vào bản chất và sự phụ thuộc vào cơ thể của tri giác, Merleau-Ponty đã có thể thách thức sự phân đôi chủ thể-khách thể truyền thống thống trị phần lớn triết học phương Tây. Khi làm như vậy, ông đã mở ra những con đường điều tra mới và mở đường cho một cuộc khám phá nhiều sắc thái hơn về thân phận con người.  Ngoài ý nghĩa triết học của nó, sự nhấn mạnh của Merleau-Ponty về tính ưu việt của tri giác đã có tác động đáng kể đến các ngành khác nhau bên ngoài triết học. Ý tưởng của ông đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học và khoa học về nhận thức, trong số những lĩnh vực khác, bằng cách khuyến khích các nhà nghiên cứu xem xét vai trò của nhận thức và cơ thể trong việc hình thành trải nghiệm của con người. Kết quả là, công việc của Merleau-Ponty đã góp phần mang lại sự hiểu biết phong phú hơn, toàn diện hơn về vô số cách mà chúng ta tương tác và hiểu thế giới xung quanh mình. CƠ THỂ SỐNG  Khía cạnh cốt lõi trong triết lý của Merleau-Ponty xoay quanh khái niệm "cơ thể sống". Ý tưởng này cho rằng cơ thể chúng ta không chỉ đơn thuần là một đối tượng vật lý tồn tại trên thế giới, mà là một thực thể chủ quan, mang tính kinh nghiệm, về cơ bản định hình nhận thức của chúng ta về thực tại. Nói cách khác, cơ thể sống là khía cạnh thiết yếu trong sự tồn tại của chúng ta, liên quan mật thiết đến cách chúng ta tương tác và trải nghiệm thế giới xung quanh.  Quan niệm về cơ thể sống của Merleau-Ponty đã có tác động sâu sắc đến nhiều ngành khác nhau, bao gồm tâm lý học, xã hội học và nghệ thuật. Ví dụ, trong tâm lý học, những ý tưởng của ông đã góp phần vào sự phát triển của các lý thuyết nhận thức phụ thuộc vào cơ thể, trong đó nhấn mạnh vai trò của cơ thể trong việc hình thành các quá trình nhận thức như nhận thức, trí nhớ và ra quyết định. Cách tiếp cận này trái ngược với các lý thuyết nhận thức truyền thống tập trung chủ yếu vào các biểu diễn tinh thần trừu tượng và các quy trình tính toán.  Trong xã hội học, khái niệm về cơ thể sống đã truyền cảm hứng cho các học giả xem xét vai trò của cơ thể trong việc xây dựng bản sắc xã hội và trải nghiệm về bất bình đẳng xã hội. Ý tưởng của Merleau-Ponty đã khuyến khích các nhà xã hội học xem xét các trải nghiệm cơ thể, chẳng hạn như chủng tộc, giới tính và người khuyết tật đã giao thoa với các cấu trúc xã hội rộng lớn hơn và các chuẩn mực văn hóa như thế nào để định hình trải nghiệm và cơ hội của các cá nhân. Điều này đã dẫn đến sự đánh giá cao hơn về sự tương tác phức tạp giữa cơ thể và xã hội, cũng như sự phát triển của các phương pháp tiếp cận phương pháp luận mới làm nền tảng cho các trải nghiệm cơ thể trong nghiên cứu xã hội học.  Hơn nữa, quan niệm về cơ thể sống của Merleau-Ponty đã ảnh hưởng đến các lý thuyết và thực hành nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, trong nghệ thuật thị giác, các nghệ sĩ đã dựa trên những ý tưởng của ông để khám phá mối quan hệ giữa cơ thể và quá trình sáng tạo, thường nhấn mạnh vai trò của những trải nghiệm được thể hiện trong quá trình sản xuất và tiếp nhận nghệ thuật. Tương tự như vậy, trong các nghiên cứu về khiêu vũ và biểu diễn, khái niệm về cơ thể sống đã được sử dụng để phân tích cách thức mà chuyển động và thể chất định hình cả việc sáng tạo và diễn giải các buổi biểu diễn.  Hơn nữa, ý tưởng về cơ thể sống đã có ảnh hưởng trong lĩnh vực nghiên cứu khuyết tật, nơi các học giả đã sử dụng các khái niệm của Merleau-Ponty để thẩm vấn các giả định xã hội về các cơ thể "bình thường" và ủng hộ sự hiểu biết toàn diện hơn về sự đa dạng của cơ thể. Bằng cách nhấn mạnh các khía cạnh chủ quan và trải nghiệm của cơ thể, triết học của Merleau-Ponty đã cung cấp một khuôn khổ có giá trị để thách thức các quan niệm truyền thống, đồng thời thúc đẩy sự đánh giá sâu sắc hơn về nhiều trải nghiệm của con người.  NGÔN NGỮ VÀ CÁCH DIỄN ĐẠT  Trong tác phẩm sau này của mình, Merleau-Ponty dành sự quan tâm đáng kể đến vai trò của ngôn ngữ và cách diễn đạt trong việc định hình trải nghiệm của con người, khám phá cách thức sự phức tạp của giao tiếp ảnh hưởng đến sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và cơ thể chúng ta. Ông cho rằng không nên xem ngôn ngữ đơn thuần như một hệ thống biểu đạt phản ánh hiện thực; đúng hơn, nó phục vụ như một phương tiện mạnh mẽ để thể hiện và bộc lộ kinh nghiệm sống của chúng ta, làm sáng tỏ các sắc thái trong suy nghĩ, cảm xúc và nhận thức của chúng ta.  Quan điểm của Merleau-Ponty về ngôn ngữ và cách diễn đạt xuất hiện từ nền tảng hiện tượng học và chủ nghĩa hiện sinh của ông, vốn nhấn mạnh tầm quan trọng của trải nghiệm chủ quan và những cách độc đáo mà các cá nhân tương tác với thế giới. Điều này khiến ông đặt câu hỏi về các lý thuyết ngôn ngữ thông thường coi ngôn ngữ như một hệ thống thuần túy khách quan, dựa trên quy tắc, tách rời khỏi sự phong phú và phức tạp của trải nghiệm con người.  Khi phát triển các ý tưởng của mình về ngôn ngữ, Merleau-Ponty đã lấy cảm hứng từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các tác phẩm của Ferdinand de Saussure, người có cách tiếp cận theo chủ nghĩa cấu trúc đối với ngôn ngữ học nhấn mạnh bản chất tùy ý của các dấu hiệu ngôn ngữ, và Ludwig Wittgenstein, người đã khám phá những cách thức đa dạng trong đó ngôn ngữ được sử dụng để truyền đạt ý nghĩa trong các ngữ cảnh khác nhau. Bằng cách tổng hợp những hiểu biết sâu sắc từ những nhà tư tưởng này và những nhà tư tưởng khác, Merleau-Ponty đã tìm cách thiết lập một sự hiểu biết toàn diện hơn về ngôn ngữ vì vai trò nhiều mặt của nó trong đời sống con người.  Một trong những khái niệm quan trọng trong cách tiếp cận ngôn ngữ của Merleau-Ponty là ý tưởng về "biểu hiện", làm nổi bật các khía cạnh sáng tạo và năng động của giao tiếp. Đối với Merleau-Ponty, ngôn ngữ không phải là một hệ thống biểu tượng tĩnh mà là một quá trình phát triển thông qua đó các cá nhân nói lên kinh nghiệm của họ, thương lượng các mối quan hệ của họ với người khác và điều hướng sự phức tạp của thế giới xung quanh họ. Sự nhấn mạnh vào biểu hiện này nhấn mạnh mối liên hệ cơ bản giữa ngôn ngữ và hiện thân, vì bản thân hành động nói hoặc viết là biểu hiện của sự hiện diện vật lý của chúng ta trên thế giới.  Những hiểu biết sâu sắc của Merleau-Ponty về ngôn ngữ và cách diễn đạt có ý nghĩa sâu rộng đối với nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, bao gồm ngôn ngữ học, ký hiệu học và lý thuyết văn học. Trong ngôn ngữ học, những ý tưởng của ông đã góp phần phát triển các cách tiếp cận mới nhấn mạnh vai trò của ngữ cảnh, hiện thân và tính liên chủ thể trong việc sử dụng và hiểu ngôn ngữ. Trong ký hiệu học, công trình của Merleau-Ponty đã cung cấp thông tin cho các cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa các dấu hiệu, ý nghĩa và kinh nghiệm, thách thức các giả định truyền thống về bản chất của biểu tượng.  ẢNH HƯỞNG LÂU DÀI CỦA MERLEAU-PONTY  Tác phẩm triết học của Merleau-Ponty đã tạo ra rất nhiều cuộc thảo luận và tranh luận trong giới học thuật, thu hút cả lời khen ngợi và sự phê phán về các khía cạnh khác nhau trong tư tưởng của ông. Một trong những đóng góp quan trọng nhất trong triết học của Merleau-Ponty là sự nhấn mạnh của ông đối với cơ thể như một thành phần thiết yếu trong trải nghiệm của con người. Sự tập trung vào bản chất hiện thân của nhận thức và nhận thức đã được ca ngợi là đột phá và đổi mới, mở đường cho sự hiểu biết toàn diện hơn về tình trạng con người vượt qua thuyết nhị nguyên truyền thống về cơ thể và tâm trí.  Tuy nhiên, một số nhà phê bình đã đặt vấn đề với một số khía cạnh trong lời giải thích về nhận thức của Merleau-Ponty, lập luận rằng các mô tả của ông về các quá trình nhận thức có thể hơi mơ hồ và thiếu rõ ràng. Những nhà phê bình này cho rằng công việc của Merleau-Ponty, mặc dù chắc chắn là rất quan trọng, nhưng vẫn để lại một số câu hỏi chưa được trả lời hoặc chưa được phát triển, dẫn đến sự mơ hồ và mâu thuẫn tiềm ẩn trong khuôn khổ triết học của ông.  Hơn nữa, công trình của Merleau-Ponty đã được các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học về nhận thức đặc biệt quan tâm, những người đã nhận thấy sự nhấn mạnh của ông về cơ thể và nhận thức là một nguồn tài nguyên quý giá để khám phá sự tương tác giữa tâm trí và môi trường. Những ý tưởng của ông đã truyền cảm hứng cho những hướng nghiên cứu mới về các chủ đề như nhận thức thể hiện, chủ nghĩa thực thi và các lý thuyết tâm trí mở rộng, nhằm tìm hiểu cách thức mà các quá trình nhận thức được hình thành bởi sự tương tác của cơ thể với thế giới.  Hơn nữa, triết học của Merleau-Ponty đã gây được tiếng vang với các nhà tư tưởng theo truyền thống hậu cấu trúc luận, những người đã bị thu hút bởi những lời phê bình của ông về thuyết nhị nguyên Descartes và sự nhấn mạnh của ông về bản chất năng động, đan xen của kinh nghiệm con người. Những nhà triết học như Jacques Derrida, Michel Foucault và Gilles Deleuze đã chịu ảnh hưởng bởi Merleau-Ponty, tìm thấy nguồn cảm hứng trong những khám phá của ông về ngôn ngữ, nhận thức và ranh giới giữa con người và đồng loại của mình./. 
  • HEIDEGGER VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP NỔI BẬT CHO HIỆN TƯỢNG HỌC
    28/ 04/ 2023
    HIỆN TƯỢNG HỌC LÀ GÌ (3): HEIDEGGER VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP NỔI BẬT CHO HIỆN TƯỢNG HỌC Nguyễn Trung Kiên tổng hợp (Kỳ 1, Kỳ 2)     I. MARTIN HEIDEGGER: NGƯỜI KHỔNG LỒ CỦA NỀN TRIẾT HỌC ĐỨC Martin Heidegger (1889-1976) là nhà triết học Đức vĩ đại của thế kỷ XX. Ông đã khám phá và phát triển những suy nghĩ sâu sắc, thú vị và đầy thuyết phục về những khía cạnh căn bản của cuộc sống như tồn tại, thời gian, ngôn ngữ, công nghệ và nhiều vấn đề triết học khác. Những công trình của ông đã để lại dấu ấn về sự tư duy và ảnh hưởng mạnh mẽ trong cộng đồng triết học và nhiều lĩnh vực khác. Ông đã có những đóng góp đáng kể cho hiện tượng học, một hướng triết học được Edmund Husserl (1859-1938) sáng lập. Ông đã xây dựng trên cơ sở triết lý của Husserl và phát triển  quan điểm riêng về cuộc hiện sinh và ý nghĩa của thế giới. Heidegger đặt câu hỏi về ý nghĩa của sự hiện diện, tương tác giữa con người và thế giới, và vai trò của ngôn ngữ trong việc hiểu thế giới. Heidegger là  nhà triết học xuất sắc không chỉ trong lĩnh vực hiện tượng học, mà còn trong việc phát triển và làm sáng tỏ triết lý của Husserl. Ông đã xây dựng trên cơ sở triết lý của Husserl và đưa ra một quan điểm độc đáo về cuộc hiện sinh và ý nghĩa của thế giới. Heidegger đi sâu vào khám phá ý nghĩa của sự hiện diện, tương tác giữa con người và thế giới, cũng như vai trò tối quan trọng của ngôn ngữ trong quá trình hiểu thế giới. Ông đã đưa ra những phân tích sắc bén và suy nghĩ sâu sắc về các khía cạnh này, mở ra một lĩnh vực triết học mới và có ảnh hưởng rộng lớn đối với nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau. Bài viết này sẽ giới thiệu tổng quan về Heidegger, bao gồm cả cuộc đời và công trình nổi tiếng của ông. Chúng ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa sâu sắc của các khái niệm quan trọng như “Dasein” (tồn tại), “Thời gian” và “Ngôn ngữ”. Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ khám phá những ảnh hưởng đáng kể mà nhà triết học Husserl đã có tới Heidegger, và những đóng góp đáng chú ý mà Heidegger đã mang đến cho lĩnh vực hiện tượng học. Trên cơ sở những nền tảng triết lý đã được đề cập, Heidegger đã thúc đẩy một cuộc cách mạng triết học trong thế kỷ XX. Ông không chỉ đơn thuần là  nhà triết học quan trọng, mà còn là  người tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của triết học đương đại bằng trí tưởng tượng phong phú của mình. Bằng cách khai phá sâu vào bản chất của cuộc hiện sinh và tiếp cận với thế giới một cách đầy sáng tạo, Heidegger đã mở ra những khía cạnh mới và khác biệt trong lĩnh vực triết học. Các đóng góp của Heidegger đã thúc đẩy hiện tượng học phát triểu nhanh chóng và ảnh hưởng mạnh mẽ tới triết học đương đại. Ông đã mở rộng phạm vi của triết học bằng cách tập trung vào hiện thực và kinh nghiệm của chúng ta trong thế giới. Bằng cách xem xét sự cuộc hiện sinh của con người, ông đã đưa ra những quan điểm đột phá về vai trò của thời gian, ngôn ngữ và công nghệ trong cuộc sống của chúng ta. Những ý tưởng này đã có sự ảnh hưởng lớn tới triết lý và triết học ứng dụng, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của triết học hiện đại. Với sự phát triển và khám phá của ý tưởng của Heidegger, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về bản chất con người và tầm quan trọng của việc hiểu về thế giới mà chúng ta đang sống. Ông đã mở ra một cánh cửa mới cho triết học, cho phép chúng ta nghiên cứu và suy ngẫm về những khía cạnh sâu xa của cuộc sống và sự tồn tại. Ý tưởng của ông về thế giới, ngôn ngữ và công nghệ đã góp phần xây dựng nền móng cho nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm triết học, văn học, nghệ thuật và khoa học xã hội. II. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP 1.    Tuổi trẻ và giáo dục Heidegger sinh ra tại Meßkirch, Đức vào năm 1889. Ông sinh ra trong gia đình nghèo khó, và cha ông là  thợ rèn. Tuy nhiên, những khó khăn đó không ngăn cản ý chí học hỏi và sự nỗ lực của Heidegger. Ông không ngừng nỗ lực trong việc theo đuổi tri thức và sự hiểu biết. Ban đầu, Heidegger theo học tại trường Công giáo, nơi ông nhận được những tri thức cơ bản. Tuy nhiên, niềm ham muốn khám phá và đam mê với triết học đã thúc đẩy ông tiếp tục học tập ở một trường cao đẳng chính trị. Điều này cho phép ông tiếp cận với những tri thức sâu sắc và trở nên đa dạng trong quan điểm và phân tích của mình. Sự tiếp xúc với trường cao đẳng chính trị đã mở ra cho Heidegger những cánh cửa mới trong nghiên cứu triết học. Ông đã có cơ hội tiếp cận với những tư tưởng và triết lý đa dạng, từ các nhà triết học cổ điển cho đến nhà triết học đương đại. Sự hòa nhập và đa dạng này đã ảnh hưởng đến quan điểm triết học của Heidegger và giúp ông phát triển các ý tưởng sáng tạo và đột phá trong lĩnh vực này. Nhờ sự nỗ lực và lòng say mê không ngừng, Heidegger đã có cơ hội được nhận vào Đại học Freiburg, một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Tại đây, ông đã chuyên tâm theo học các môn học như triết học, toán học và thiên văn học, mở rộng tri thức và nhận thức của mình về những khía cạnh khác nhau của tri thức nhân loại. Trong suốt thời gian học tập tại Đại học Freiburg, ông đã dành thời gian và nỗ lực lớn để tìm hiểu sâu về triết học. Ông đã nghiên cứu các nhà triết học cổ điển như Plato và Aristotle, cùng với sự tìm hiểu về triết học đương đại và các phong trào triết học tiên phong. Những tri thức và hiểu biết này đã giúp ông xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển của triết học cá nhân của mình. Heidegger cũng quan tâm đến các lĩnh vực triết học liên quan khác như toán học và thiên văn học. Việc nghiên cứu những môn học này đã giúp ông nhận ra sự liên kết giữa triết học và các lĩnh vực khác của tri thức nhân loại. Ông nhận thấy rằng những nguyên tắc và phương pháp của toán học có thể áp dụng vào triết học, đồng thời, sự hiểu biết về vũ trụ và thiên văn học cũng có thể đóng góp vào việc khám phá cuộc hiện sinh của con người. Với việc tiếp thu và nghiên cứu đa dạng các môn học, Heidegger đã mở rộng tầm nhìn và hiểu biết của mình về tri thức nhân loại. Những tri thức này đã làm nền tảng cho ông trong việc phát triển những ý tưởng và quan điểm triết học độc đáo của mình trong tương lai.  GẶP GỠ HUSSERL VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA HUSSERL Tại Đại học Freiburg, Heidegger đã gặp gỡ và thiết lập mối quan hệ học thuật với Husserl, người sáng lập hiện tượng học. Cuộc gặp gỡ này đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của Heidegger, tạo ra một sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với ông và làm thay đổi hướng đi của suy nghĩ của ông. Husserl đã truyền cảm hứng cho Heidegger về tầm quan trọng của trải nghiệm trực tiếp và việc hiểu về thế giới thông qua cách chúng ta trải nghiệm nó. Điều này đặc biệt quan trọng đối với Heidegger, và đã tạo ra một ảnh hưởng mạnh mẽ đến suy nghĩ và triết lý của ông. Heidegger đã nhận thấy rằng trải nghiệm cá nhân và đối thoại với thế giới xung quanh chúng ta có vai trò quan trọng trong việc hiểu về cuộc hiện sinh và ý nghĩa của nó. Ông đã xem xét sự hiện diện của thời gian trong trải nghiệm của chúng ta và cách ngôn ngữ và công nghệ tác động đến cách chúng ta nhìn nhận và tương tác với thế giới. Tuy nhiên, sau khi tiếp thu những ý tưởng từ Husserl, Heidegger đã đi xa hơn và không chỉ đơn thuần áp dụng những khái niệm của ông, mà còn phát triển các ý tưởng và khái niệm mới, mang tính cá nhân và độc đáo. Ông đã khám phá và phát triển những khái niệm về “Dasein” (cuộc hiện sinh), “thời gian”, “ngôn ngữ” và “công nghệ”, các khái niệm này đã trở thành cốt lõi của triết học Heidegger. Ông đặc biệt quan tâm đến cách những yếu tố này tương tác và tác động lẫn nhau trong việc hiểu về cuộc hiện sinh và ý nghĩa của cuộc hiện sinh. Heidegger đã phát triển  phương pháp triết học gọi là “phân tích hiện sinh” để khám phá bản chất của cuộc hiện sinh của con người. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của trải nghiệm cá nhân, khám phá cách mà chúng ta tồn tại trong thế giới và tương tác với nó thông qua ngôn ngữ và công nghệ. Ông lập luận rằng chỉ khi chúng ta nhìn nhận một cách sâu sắc và chân thực thế giới xung quanh chúng ta, chúng ta mới có thể hiểu và định hình ý nghĩa của cuộc hiện sinh. SỰ NGHIỆP GIẢNG DẠY VÀ CÁC CÔNG TRÌNH QUAN TRỌNG Sau khi hoàn thành việc học, Heidegger trở thành giáo sư triết học tại Đại học Freiburg. Trong vai trò này, ông đã đóng góp quan trọng vào việc phát triển lĩnh vực triết học và trở thành một nhân vật nổi tiếng trong giới học thuật. Sau đó, ông đã chuyển đến làm việc tại Đại học Marburg, nơi ông tiếp tục nghiên cứu và truyền đạt triết lý của mình. Trong quá trình này, Heidegger đã viết kiệt tác triết học của đời mình mang tên “Sein und Zeit” (Tồn tại và Thời gian) vào năm 1927. Đây được xem là  tác phẩm triết học đột phá và đã gây tiếng vang lớn trong cộng đồng triết học. Công trình này nổi tiếng với cách tiếp cận phiênhọc, khám phá ý nghĩa của cuộc hiện sinh và thời gian trong cuộc sống con người. “Tồn tại và thời gian” đã nhận được sự công nhận rộng rãi và trở thành một trong những tác phẩm triết học quan trọng nhất của thế kỷ XX. Tác phẩm này đã ảnh hưởng đến nhiều nhà triết học và làm thay đổi cách nhìn về triết học hiện đại. Với công trình này, Heidegger đã cung cấp những cơ sở lý thuyết mới và mở ra một hướng đi mới trong triết học. Sau thành công của “Tồn tại và thời gian”, Heidegger tiếp tục giảng dạy và xuất bản nhiều tác phẩm khác. Các công trình của ông tiếp tục làm giàu lý luận hiện tượng học và triết học hiện đại. Heidegger không dừng lại ở “Tồn tại và thời gian” mà tiếp tục khám phá và phát triển những ý tưởng mới trong triết học của mình. Heidegger đã đóng góp vào nhiều lĩnh vực, bao gồm triết học hiện sinh, triết học ngôn ngữ, triết học của công trình nghệ thuật, triết học công nghệ, và triết học chính trị. Công trình của ông mang tính đột phá và thách thức các khái niệm truyền thống trong triết học, đồng thời mở rộng phạm vi lĩnh vực triết học. Ông đã viết nhiều cuốn sách và bài viết quan trọng, như “Die Frage nach dem Ding” (Câu hỏi về sự vật), “Was ist Metaphysik?” (Siêu hình học là gì), và “Vom Wesen des Grundes” (Về bản chất của các Căn nguyên). Những công trình này tiếp tục đóng góp vào việc khai phá sâu hơn về bản chất của thế giới và con người. Heidegger cũng không chỉ là  nhà triết học lý thuyết mà còn là  giáo viên xuất sắc. Ông đã truyền đạt triết lý của mình thông qua giảng dạy và hướng dẫn nhiều học trò, ảnh hưởng đến thế hệ nhà triết học sau này.  NHỮNG ĐÓNG GÓP NỔI BẬT CỦA HEIDEGGER CHO HIỆN TƯỢNG HỌC 1.    Tồn tại và Thời gian (Sein und Zeit) “Tồn tại và thời gian” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Heidegger, trong đó ông đưa ra khái niệm về “Dasein” - tồn tại. Tác phẩm này đã có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển và truyền bá triết học của ông. Ông giới thiệu khái niệm “Dasein” như một khía cạnh toàn diện của cuộc hiện sinh của con người, không chỉ nằm trong không gian mà còn trong thời gian. Heidegger cho rằng để hiểu được bản chất của cuộc hiện sinh, chúng ta không thể không xét đến khía cạnh thời gian và sự thay đổi liên tục của nó. Ông nhấn mạnh rằng con người tồn tại trong một không gian thời gian đặc biệt và quan trọng. Khái niệm “Dasein” gợi lên ý tưởng rằng con người không chỉ đơn thuần tồn tại trong thực tại hiện tại, mà còn có một mối quan hệ mật thiết với quá khứ và tương lai. Ông cũng nhấn mạnh rằng con người thường có xu hướng tập trung vào tương lai hơn là quá khứ. Chúng ta dành nhiều thời gian suy nghĩ và chuẩn bị cho những gì sẽ xảy ra trong tương lai, trong khi đôi khi lãng quên những trải nghiệm và hành trình của quá khứ. Heidegger cho rằng điều này có thể gây hiểu lầm và làm mất đi một phần quan trọng của cuộc hiện sinh của con người, vì quá khứ cũng đóng góp vào việc xác định và hình thành chúng ta. 2.    Công nghệ và “kết cấu” Heidegger cũng nổi tiếng với những suy nghĩ của mình về công nghệ và khái niệm “kết cấu” (Gestell). Theo ông, “kết cấu” đề cập đến sự chuyển đổi của thế giới tự nhiên thành một hệ thống sản xuất và tiêu dùng. Ông cho rằng công nghệ hiện đại không chỉ đơn thuần là  phương tiện, mà còn tác động đến cách chúng ta nhìn nhận thế giới xung quanh. Theo Heidegger, công nghệ hiện đại đã tạo nên một cách nhìn đặc biệt và có phần thiên kiến, khiến chúng ta coi mọi thứ trong tự nhiên như là những nguồn tài nguyên để khai thác và kiểm soát. Thay vì nhìn nhận tự nhiên và các hiện tượng với sự kính trọng và tôn trọng, chúng ta hiện tại thường xem chúng qua một lăng kính công nghệ, xem chúng chỉ là các thành phần để được sử dụng và tận dụng. Ông cho rằng việc này dẫn đến việc lãng phí và việc hủy hoại thế giới tự nhiên, khiến chúng ta mất đi khả năng hiểu và đánh giá đúng môi trường tự nhiên. “Kết cấu” của công nghệ không chỉ có tác động lên cách chúng ta nhìn nhận thế giới tự nhiên, mà còn tạo ra sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa trong cách tiếp cận và sử dụng công nghệ. Điều này có thể dẫn đến việc mất đi những khía cạnh đa dạng và độc đáo của thế giới tự nhiên, khiến cho sự khác biệt và sự đa dạng không được đánh giá và coi trọng. Ông cảnh báo rằng khung công nghệ có thể làm mất đi bản chất tự nhiên và con người, và gợi mở về việc chúng ta cần đối mặt và đặt câu hỏi về vai trò và tác động của công nghệ trong cuộc hiện sinh của chúng ta. 3.    Ngôn ngữ và “lời nói trống rỗng” Heidegger cũng chú ý đến vai trò của ngôn ngữ trong hiện tượng học và triết học. Ông cho rằng ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là  công cụ giao tiếp, mà còn là  cách chúng ta thể hiện và hiểu thế giới xung quanh. Heidegger đặt một khái niệm quan trọng là “lời nói trống rỗng” (Gerede), để chỉ sự truyền đạt thông tin không chính xác và không phản ánh bản chất thực sự của hiện tượng. Khái niệm này ám chỉ đến các cách thức của trò chuyện hàng ngày mà không có sự hiểu biết thật sự, cảm nhận thực tế hoặc ý thức tồn tại sâu sắc. Heidegger cho rằng "lời nói trống rỗng" là một trạng thái của ngôn ngữ mà người ta thường rơi vào, khi chúng ta không tự suy ngẫm hoặc đặt câu hỏi về thế giới xung quanh mình, mà chỉ lặp lại và tái sử dụng các cụm từ và khái niệm mà chúng ta nghe thấy từ người khác. “Lời nói trống rỗng” trở thành một hành động tự động và bình thường, mà không đòi hỏi sự chân thành và sự đồng thuận với bản chất của hiện tượng. Khi chúng ta chỉ truyền đạt thông tin theo cách “lời nói trống rỗng”, chúng ta không thể đạt được sự hiểu biết sâu sắc về thế giới và tồn tại. Heidegger nhấn mạnh rằng chúng ta cần cảnh giác và tiếp cận ngôn ngữ một cách chân thành và chính xác hơn. Chúng ta nên tìm hiểu và sử dụng ngôn ngữ một cách cẩn thận và đúng đắn, để có thể phản ánh bản chất thực sự của hiện tượng và đạt được sự hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới và tồn tại. 4.    Chỉ số về cuộc hiện sinh Heidegger đã đưa ra một loạt các chỉ số về cuộc hiện sinh, được gọi là “Existenzialien” (tồn tại-người), nhằm giúp chúng ta hiểu về bản chất của cuộc hiện sinh của con người. Các chỉ số này giúp ông phân tích và định hiện tượng học theo cách mới mẻ và sâu sắc hơn. "Existenzialien" là từ ghép của hai từ trong tiếng Đức: "Existenz" (sự tồn tại) và "alien" (người ngoại bang). Heidegger sử dụng thuật ngữ này để chỉ những khía cạnh đặc thù của sự tồn tại con người, những khía cạnh mà khiến con người trở nên riêng biệt và khác biệt so với các thực thể khác trong thế giới. Nó tương đương với khái niệm "Dasein" trong triết học của Heidegger, đại diện cho sự tồn tại con người như một hiện thực đặc biệt. Dưới đây là  số chỉ số nổi bật mà Heidegger đã sử dụng:  a) Thế giới (Welt): Chỉ số này liên quan đến cách con người trải nghiệm và tồn tại trong thế giới xung quanh. Thế giới không chỉ đơn thuần là một môi trường vật chất mà con người sống và tồn tại, mà nó còn mang đến nhiều hơn thế. Thế giới là một không gian phong phú, tràn đầy ý nghĩa và giá trị đối với cuộc sống của chúng ta. Con người không chỉ đơn thuần là một phần tử của thế giới, mà chúng ta còn có khả năng trải nghiệm và tạo dựng ý nghĩa cho nó. Thế giới là nơi chúng ta gặp gỡ và tương tác với những người khác, khám phá các nền văn hóa và tư duy đa dạng, và thể hiện bản thân thông qua những thành tựu và đóng góp cho xã hội. Chúng ta có thể trải nghiệm thế giới qua các giác quan, như nhìn, nghe, xúc giác và thậm chí tư duy. Từ cảm nhận màu sắc và hình dạng của vật thể xung quanh, âm thanh của thiên nhiên và âm nhạc, cho đến cảm giác khi chạm vào một vật phẩm, tất cả đều góp phần tạo nên sự đa dạng và sự phong phú của thế giới. Tuy nhiên, thế giới không chỉ tồn tại trong không gian vật chất mà còn trong không gian tư tưởng và ý niệm. Đó là nơi chúng ta xây dựng và gìn giữ các giá trị, niềm tin, ý thức và tri thức. Thế giới cũng là nơi chúng ta thể hiện sự tồn tại của mình qua sự phát triển cá nhân, việc thực hiện mục tiêu và đam mê, và khám phá sự ý nghĩa của cuộc sống.  b) Người khác (Mitsein): Chỉ số này tập trung vào mối quan hệ giữa con người với người khác. Heidegger cho rằng người khác đóng vai trò quan trọng trong việc xác định và định hình cuộc hiện sinh của chúng ta, và qua đó, chúng ta có thể hiểu và tồn tại chính mình. Đối với Heidegger, mối quan hệ với người khác không chỉ đơn thuần là giao tiếp và tương tác xã hội. Thay vào đó, ông nhìn nhận người khác như một phần không thể thiếu trong sự hiện hữu của chúng ta. Người khác không chỉ là những cá nhân độc lập, mà là những người có sự hiện diện và ảnh hưởng đối với cuộc sống của chúng ta. Người khác không chỉ đóng vai trò là những người đối tác xã hội, mà còn là những người mang lại cho chúng ta sự nhận thức về bản thân. Qua việc quan sát, tương tác và giao tiếp với người khác, chúng ta có thể nhìn nhận mình thông qua góc nhìn của người khác. Nhờ đó, chúng ta nhận ra sự tồn tại của mình và xác định được bản chất con người của mình. Đồng thời, người khác cũng đóng vai trò trong việc định hình tồn tại của chúng ta. Những quy chuẩn xã hội, giá trị và niềm tin được xây dựng thông qua mối quan hệ với người khác. Chúng ta học hỏi, thích nghi và xác định bản thân dựa trên sự tương tác và tác động từ người khác. Như vậy, người khác đóng góp quan trọng vào việc hình thành và phát triển của chúng ta.  c) Chính mình (Selbstsein): Chỉ số này liên quan đến sự nhận thức và tồn tại của con người đối với chính mình. Heidegger nhấn mạnh về việc phải đối mặt với chính mình, tự tạo nên ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống. Theo Heidegger, chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của sự tồn tại nếu không đối diện trực tiếp với chính mình. Từ việc nhận thức và tồn tại, chúng ta có thể xác định và định hình ý nghĩa của cuộc sống. Điều quan trọng là chúng ta không chỉ đơn thuần là tồn tại, mà còn phải tồn tại một cách ý nghĩa. Tự nhận thức và tự xác định mục tiêu trong cuộc sống giúp chúng ta đạt được trạng thái của chính mình, tự tạo nên một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Điều này đòi hỏi sự chấp nhận trách nhiệm cá nhân và khám phá bản thân mình, vượt qua những giới hạn và trở thành người sáng tạo của cuộc đời mình. Qua việc phát triển khả năng nhận thức và tự thể hiện, chúng ta có thể khám phá, xây dựng và thể hiện ý nghĩa và mục đích của bản thân trong thế giới. d) Thời gian (Zeit): Chỉ số này tập trung vào vai trò quan trọng của thời gian trong sự tồn tại. Theo Heidegger, để hiểu được sự tồn tại, chúng ta không thể bỏ qua khía cạnh thời gian và sự thay đổi không ngừng của nó. Thời gian không chỉ là một khái niệm về quãng thời gian định lượng, mà còn là một khía cạnh định hình và điều chỉnh trạng thái tồn tại của chúng ta. Nó không chỉ là một phương tiện đo lường, mà còn là một sức mạnh ảnh hưởng đến cách chúng ta trải nghiệm và hiểu thế giới. Trạng thái của chúng ta trong thời gian không chỉ dựa trên quá khứ và hiện tại, mà còn phụ thuộc vào triển vọng và mong đợi của tương lai. Thời gian mang đến sự biến đổi, sự phát triển và sự hình thành của tồn tại, và nó là một yếu tố không thể thiếu trong việc tìm hiểu ý nghĩa và ý thức của chúng ta trong thế giới này. e) Sự chết (Tod): Chỉ số này đề cập đến sự chấp nhận và nhìn nhận sự chết như một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Heidegger cho rằng nhận thức về sự chết không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa của cuộc sống mà còn tăng cường sự quan trọng và khả năng tự thực hiện trong thời gian có sẵn. Ý thức về sự chết đẩy chúng ta suy nghĩ về mục tiêu, ước mơ và giá trị thực sự của những gì chúng ta làm trong cuộc đời. Chúng ta nhận ra rằng thời gian có hạn và việc chúng ta làm trong thế giới này mang ý nghĩa đặc biệt. Bằng cách chấp nhận và nhìn nhận sự chết, chúng ta trở nên nhạy bén hơn với giá trị của mỗi khoảnh khắc, tận hưởng cuộc sống và cống hiến hết mình để thực hiện những ước mơ và ý tưởng của chúng ta. f) Quan hệ với thần (Gott): Chỉ số này liên quan đến khía cạnh tôn giáo và tâm linh trong tồn tại. Heidegger khám phá quan hệ giữa con người và cuộc hiện sinh của thần và cách nó tác động đến ý nghĩa của cuộc hiện sinh làm người. Heidegger đã đi sâu vào nghiên cứu quan hệ giữa con người và thần, mang đến một cái nhìn mới về khía cạnh tôn giáo và tâm linh trong tồn tại. Ông nghiên cứu cách thức mà cuộc hiện sinh của thần ảnh hưởng đến ý nghĩa của cuộc sống con người, tạo ra một liên kết đặc biệt giữa hai thực thể này. Theo Heidegger, thần không chỉ là một thực thể tôn giáo được tưởng tượng với quyền năng siêu nhiên, mà còn là một khía cạnh cuộc hiện sinh của con người. Ông cho rằng thần hiện diện trong thế giới thông qua cuộc sống con người, và nó tác động mạnh mẽ đến ý nghĩa và giá trị của cuộc sống. Từ quan điểm của Heidegger, con người không thể hiểu được ý nghĩa thực sự của cuộc sống mà không nhìn nhận tầm quan trọng của mối quan hệ với thần. Thần không chỉ là một đối tượng bên ngoài, mà là một phần không thể thiếu của bản thể con người. Qua việc hiểu rõ và sống đúng với quan hệ này, con người mới có thể khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc sống. g) Sự lưu giữ kỷ niệm (Gedenken): Chỉ số này liên quan đến khả năng của con người để ghi nhớ và tưởng nhớ về quá khứ. Heidegger cho rằng sự lưu giữ kỷ niệm là  khía cạnh quan trọng trong việc xây dựng ý nghĩa và hiểu biết về cuộc hiện sinh của chúng ta. Sự lưu giữ kỷ niệm (Gedenken) đóng một vai trò không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Chúng ta có khả năng ghi nhớ và tưởng nhớ về quá khứ, đó là điều tạo nên sự đặc biệt và phong phú của kinh nghiệm con người. Theo Heidegger, sự lưu giữ kỷ niệm không chỉ đơn thuần là việc ghi nhớ sự kiện đã xảy ra, mà còn là khả năng hiểu biết và tạo ra ý nghĩa từ những kỷ niệm đó. Qua việc lưu giữ và tưởng nhớ, chúng ta có thể tạo ra một khung cảnh toàn diện về cuộc hiện sinh của chúng ta, từ quá khứ đến hiện tại và thậm chí là tương lai. Kỷ niệm không chỉ là một khái niệm cá nhân, mà còn là một phần quan trọng của văn hóa và xã hội. Qua việc truyền đạt và chia sẻ kỷ niệm, chúng ta xây dựng và bảo tồn những giá trị và truyền thống của một cộng đồng. Sự lưu giữ kỷ niệm cũng giúp chúng ta hình thành một cái nhìn sâu sắc hơn về quá khứ và hiểu biết về sự phát triển của con người. Qua việc phát triển khả năng lưu giữ kỷ niệm, chúng ta không chỉ nắm bắt được những bài học quý giá từ quá khứ, mà còn tạo ra một sự kết nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Việc hiểu biết và tôn trọng quá khứ giúp chúng ta xác định và xây dựng ý nghĩa của cuộc sống, đồng thời tạo ra tiền đề cho sự phát triển bền vững của con người. h) Sự thật (Wahrheit): Chỉ số này tập trung vào cách chúng ta hiểu và tiếp cận sự thật. Heidegger cho rằng sự thật không chỉ là  trạng thái đơn thuần của sự phù hợp với hiện thực, mà còn liên quan đến cách chúng ta tồn tại và hiểu biết thế giới xung quanh. Theo Heidegger, sự thật không chỉ đơn giản là một trạng thái phù hợp với hiện thực, mà nó còn rộng hơn và liên quan trực tiếp đến cách chúng ta tồn tại và hiểu biết thế giới xung quanh. Đối với Heidegger, sự thật không phải là một khái niệm tĩnh lẻ, mà là một quá trình động, đòi hỏi sự tham gia tích cực và cảm nhận tự thân của chúng ta. Theo quan niệm của Heidegger, chúng ta không thể hiểu sự thật chỉ bằng cách nhìn vào đối tượng và xác định tính chất của nó. Thay vào đó, sự thật phụ thuộc vào cách chúng ta tồn tại và hiểu biết thế giới. Heidegger lập luận rằng chúng ta không phải chỉ là người quan sát bên ngoài, mà chúng ta cũng là những người tồn tại trong thế giới này. Chúng ta không chỉ đơn thuần nhận thức thế giới, mà chúng ta đồng thời là một phần của nó.   Các chỉ số trên được Heidegger sử dụng để mở rộng khám phá về cuộc hiện sinh của con người và khám phá ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống. Thông qua việc phân tích các chỉ số này, ông đã thay đổi cách chúng ta hiểu về cuộc hiện sinh và xây dựng một lĩnh vực hiện tượng học mới mẻ và phong phú.  (còn tiếp)
  • HIỆN TƯỢNG HỌC LÀ GÌ? (1)
    26/ 04/ 2023
    HIỆN TƯỢNG HỌC LÀ GÌ?  Nguyễn Trung Kiên tổng hợp (Kỳ 1)     Hiện tượng học, xuất phát từ hai từ tiếng Hy Lạp, là φαινόμενον (phainómenon) có nghĩa là "cái xuất hiện" và λόγος (lógos) có nghĩa là "nghiên cứu", được xem là một truyền thống giàu có và ảnh hưởng sâu sắc trong lĩnh vực nghiên cứu triết học liên quan đến các cấu trúc của kinh nghiệm và ý thức con người. Đây là phong trào triết học mang tính bản sắc riêng, được hình thành và phát triển vào những năm đầu của thế kỷ XX bởi nhà triết học đến từ Đức là Edmund Husserl, người đóng vai trò quan trọng trong việc định hình nên hướng nghiên cứu và phát triển của hiện tượng học. Sau khi được thành lập, hiện tượng học đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà triết học khác và được mở rộng, phát triển hơn nữa bởi một nhóm những người theo đuổi học thuyết của Husserl tại các trường đại học Göttingen và Munich ở Đức. Cuối cùng, phong trào này lan rộng tới Pháp, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác trên thế giới, chứng tỏ sức hấp dẫn và tầm ảnh hưởng của hiện tượng học trong giới triết học quốc tế. Tuy nhiên, thông thường những sự phát triển của hiện tượng học lại diễn ra trong những bối cảnh khác xa với công trình ban đầu của Husserl, điều này đã dẫn đến sự xuất hiện của một loạt các cách tiếp cận và ý tưởng khác nhau trong truyền thống hiện tượng học. Mỗi học thuyết và triết lý có sức mạnh riêng, đều góp phần làm phong phú và đa dạng hóa truyền thống hiện tượng học, đồng thời mở ra nhiều khả năng nghiên cứu và phát triển cho lĩnh vực triết học này trong tương lai. Về cốt lõi, hiện tượng học là lĩnh vực nghiên cứu tìm cách khám phá sâu vào bản chất của kinh nghiệm con người, tập trung nghiên cứu cách mà chúng ta nhận thức, xử lý thông tin và giải thích thế giới xung quanh chúng ta, cũng như những nguyên tắc cơ bản và cấu trúc nền tảng cho các quá trình gắn liền với nhận thức và suy luận này. Mục tiêu của hiện tượng học là giải mã bản chất của kinh nghiệm, cách chúng ta tiếp cận và phản ứng với môi trường sống của mình. Điều này liên quan đến việc xem xét và phân tích các hiện tượng khi chúng xuất hiện trong trải nghiệm chủ quan của chúng ta, thay vì chỉ tập trung vào thế giới khách quan, bên ngoài, mà bỏ qua những giá trị, cảm xúc và cảm nhận riêng của từng cá nhân. Hiện tượng học nhấn mạnh sự quan trọng của việc tìm hiểu thế giới thông qua cái nhìn của người trải nghiệm, đặt ra câu hỏi về cách chúng ta nhìn nhận và đánh giá các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Theo cách này, hiện tượng học đặt nặng tầm quan trọng của quan điểm của người đầu tiên, kinh nghiệm cá nhân và bản chất chủ quan của hiện thực. Nó coi trọng việc lắng nghe, khám phá và thấu hiểu các kinh nghiệm, cảm xúc và suy nghĩ của cá nhân, để có thể tiếp cận và đưa ra những giải pháp, cách tiếp cận mới mẻ, phù hợp hơn trong việc nghiên cứu và hiểu biết con người, đáp ứng nhu cầu và mong đợi của từng cá nhân. Hiện tượng học giúp xây dựng nền tảng vững chắc cho việc phát triển tri thức và nhận thức về bản thân, cũng như định hướng cho những nghiên cứu và ứng dụng trong tương lai. Công trình nghiên cứu đột phá của nhà triết học Edmund Husserl đã đặt nền tảng vững chắc cho sự ra đời và phát triển của phong trào hiện tượng học, trường phái triết học quan trọng đã góp phần thay đổi lý thuyết và phương pháp của nhiều học thuyết sau này. Husserl đã đề xuất một phương pháp độc đáo, tiên phong mà sau này được gọi là "quy giản hiện tượng học" hoặc "epoché". Phương pháp này có ý nghĩa sâu sắc trong việc nghiên cứu triết học, khi nó đưa ra cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và độc đáo. Để áp dụng quy giản hiện tượng học hay epoché, người nghiên cứu cần tiến hành đình chỉ hoặc tạm thời "đóng khung" tất cả các thái độ, niềm tin và phán đoán tự nhiên của mình về thế giới hiện thực bên ngoài. Mục đích của việc này là để giúp người nghiên cứu chỉ tập trung vào những trải nghiệm chủ quan của riêng mình, bỏ qua tất cả các yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng đến quá trình suy nghĩ. Thực hiện quá trình này, Husserl đã hướng đến mục tiêu quan trọng là khám phá các cấu trúc cơ bản, thiết yếu của ý thức con người. Ông đã tập trung nghiên cứu vào cách thức mà các đối tượng được mang lại ý nghĩa thông qua trải nghiệm của chúng ta về chúng, đặc biệt là cách thức mà ý nghĩa được hình thành, phát triển và biến đổi trong quá trình giao tiếp giữa con người và thế giới xung quanh. Nhờ vào phương pháp quy giản hiện tượng học, Husserl đã đem đến cho thế giới triết học một khuôn mẫu mới, mở đường cho sự phát triển của nhiều học thuyết và lý thuyết sau này. Ý tưởng này không chỉ giúp tạo nên bước đột phá trong việc tìm hiểu về ý thức con người, mà còn tạo ra nền tảng để các nhà triết học sau này xây dựng và phát triển các học thuyết của họ. Hiện tượng học là bộ môn triết học có nguồn gốc từ các tác phẩm của Edmund Husserl vào đầu thế kỷ XX. Nhiều nhà triết học đã đóng góp vào sự phát triển của hiện tượng học trong những năm qua. Tuy nhiên, điều cần thiết là phải nhận ra rằng hiện tượng học không phải là một phong trào thống nhất mà là một lĩnh vực nghiên cứu đa dạng và đang phát triển. Các cách tiếp cận độc đáo của những người đề xuất khác nhau đã đóng góp vào sự đa dạng của hiện tượng học. Theo Gabriella Farina, việc đưa ra một định nghĩa duy nhất về hiện tượng học không chỉ nguy hiểm mà còn đầy nghịch lý, vì bộ môn này thiếu trọng tâm. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận hiện tượng học như một phong cách tư duy, một phương pháp và một trải nghiệm không giới hạn, liên tục với những kết quả khác nhau. Bản chất đa dạng vốn có và luôn thay đổi của hiện tượng học có thể làm mất phương hướng đối với những người cố gắng nắm bắt bản chất của nó. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc chúng ta có thể tiếp cận hiện tượng học theo nhiều cách khác nhau và phát triển nó một cách sáng tạo. Do đó, hiện tượng học không chỉ là một học thuyết hay một trường phái triết học mà là một bộ môn phong phú và đầy triển vọng để khám phá. Sự tương đồng giữa các nhà hiện tượng học có thể được khám phá thông qua việc phân tích các tác phẩm của các tác giả khác nhau trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để hiểu được sự tương đồng này, chúng ta cần nhìn vào những ý tưởng và nguyên tắc cốt lõi mà các tác giả này chia sẻ. Ở cốt lõi của nó, hiện tượng học tập trung vào việc hiểu cấu trúc của ý thức và các đặc điểm thiết yếu của kinh nghiệm con người. Để làm được điều này, nó tập trung vào quan điểm của người thứ nhất và phân tích cách mà các cá nhân nhận thức, diễn giải và hiểu về thế giới xung quanh họ. Nhấn mạnh vào kinh nghiệm chủ quan và mối quan hệ có chủ ý giữa chủ thể và khách thể là một chủ đề chung xuyên suốt các chuỗi tư tưởng hiện tượng học khác nhau. Bằng cách khám phá sự tương đồng giữa các tác phẩm của các tác giả khác nhau trong lĩnh vực này, chúng ta có thể tìm ra các xu hướng chung và tiếp tục phát triển các ý tưởng mới để cải thiện sự hiểu biết của chúng ta về hiện tượng học. Tuy nhiên, bất chấp việc có một nền tảng chung được chia sẻ giữa các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực hiện tượng học, thực tế cho thấy rằng vẫn tồn tại rất nhiều sự khác biệt đáng chú ý trong cách tiếp cận và quan điểm giữa các học giả nổi tiếng trong lĩnh vực này. Điều này có thể được minh họa thông qua việc xem xét những đóng góp của một số nhân vật nổi bật nhất trong lĩnh vực hiện tượng học, bao gồm những người như Edmund Husserl, người sáng lập ra trường phái hiện tượng học, Martin Heidegger, nhà triết học Đức nổi tiếng đã đưa hiện tượng học vào một hướng mới, Jean-Paul Sartre, nhà triết học Pháp đã phát triển học thuyết hiện tượng học theo phương hướng triết học tự do, và Maurice Merleau-Ponty, người đã kết hợp hiện tượng học với triết học về cơ thể và triết học về thế giới. Mỗi nhân vật trên đều đã đưa ra những quan điểm triết học độc đáo của họ để áp dụng vào nghiên cứu hiện tượng học, từ việc nhấn mạnh tầm quan trọng của ý thức đến việc chú trọng vào mối liên hệ giữa con người và thế giới. Những đóng góp của họ đã dẫn đến sự hình thành của một bức tranh toàn cảnh về tư tưởng trong lĩnh vực hiện tượng học vô cùng phong phú và đa dạng, đồng thời cũng tạo ra nhiều lớp phức tạp và nhiều khía cạnh khác nhau cần được khám phá. Nhờ những đóng góp của các nhà triết học nổi tiếng này, lĩnh vực hiện tượng học đã trở nên giàu có và phức tạp hơn, mở ra những cơ hội cho sự phát triển và nghiên cứu trong tương lai. Đồng thời, việc tồn tại nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau cũng thúc đẩy sự đối thoại và tranh luận giữa các nhà hiện tượng học, tạo nên một môi trường sinh động và sáng tạo cho sự phát triển của lĩnh vực này. Các nhà hiện tượng học không chỉ nghiên cứu và phân tích ý thức, mà còn tìm cách hiểu rõ hơn về các hiện tượng xã hội, văn hóa và chính trị, đồng thời đưa ra những lý thuyết mới về cách con người hiểu và tiếp xúc với thế giới xung quanh. Sự đa dạng trong các quan điểm và cách tiếp cận của các nhà hiện tượng học đã giúp mở rộng phạm vi nghiên cứu của lĩnh vực này, từ việc khám phá những hiện tượng cơ bản của ý thức đến việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến văn hóa, xã hội và chính trị. Điều này không chỉ giúp hiện tượng học gắn kết chặt chẽ với các lĩnh vực khác của triết học và khoa học xã hội, mà còn tạo ra những tiến bộ đáng kể trong việc hiểu biết về con người và thế giới. Edmund Husserl, nhà triết học Đức gốc Ao, thường được gọi là cha đẻ của hiện tượng học, một lĩnh vực trong triết học nghiên cứu về ý nghĩa và cấu trúc của trải nghiệm. Ông đã giới thiệu một phương pháp độc đáo được gọi là 'đặt vào trong ngoặc', một kỹ thuật tư duy phân tích nhằm loại bỏ các giả định và đánh giá liên quan đến thế giới bên ngoài. Thay vào đó, Husserl muốn chúng ta chỉ tập trung vào việc nghiên cứu bản thân các hiện tượng, bao gồm cách chúng ta nhận thức và trải nghiệm thực tế. Phương pháp tiếp cận này nhằm mục đích tiết lộ các cấu trúc và ý nghĩa cốt lõi, những nguyên tắc cơ bản mà con người dựa vào để hiểu và cảm nhận thế giới xung quanh. Husserl khẳng định rằng việc khám phá những cấu trúc và ý nghĩa này là điều quan trọng để có thể hiểu được bản chất của trải nghiệm và ý thức con người. Công trình của Husserl đã đặt nền móng cho nhiều nhà hiện tượng học sau này tiếp tục phát triển và mở rộng. Họ đã xây dựng trên những ý tưởng của ông để khám phá các khía cạnh khác nhau của trải nghiệm và ý thức, từ những cấu trúc và quy luật chung cho đến những điểm đặc biệt trong từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là ý tưởng của Husserl chỉ là một bước đệm, một điểm khởi đầu cho sự phát triển của hiện tượng học. Điều này không giảm nhẹ tầm quan trọng của công trình của ông, nhưng cũng không nên coi đó là một giải pháp hoàn toàn hoàn chỉnh hay đầy đủ cho mọi vấn đề trong lĩnh vực hiện tượng học. Martin Heidegger, nhà triết học Đức nổi tiếng và học trò xuất sắc của Edmund Husserl, đã không ngần ngại đưa ra những ý tưởng độc đáo và táo bạo, đi ngược lại với một số phương pháp và cách tiếp cận truyền thống của người thầy mình trong lĩnh vực hiện tượng học. Mặc dù cả hai đều chú trọng vào việc nghiên cứu hiện tượng học, nhưng Heidegger đã phát triển một hướng đi riêng biệt và độc lập, cho thấy sự khác biệt về triết lý của ông so với Husserl. Thay vì chỉ tập trung vào các quy luật chung của hiện tượng học, Heidegger đã đưa ra khái niệm 'Hữu thể' (Dasein) - một khái niệm trung tâm trong tư tưởng của ông, đề cập đến bản chất của con người trong đời sống và cách mà chúng ta tồn tại trong thế giới. Ông khẳng định rằng việc tiếp cận Hữu thể qua kinh nghiệm sống thực tế của con người sẽ giúp ta hiểu được những cấu trúc hiện sinh định hình sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và vị trí của chúng ta trong đó. Trong tác phẩm chính của mình, "Hữu thể và Thời gian", Heidegger đã phân tích sâu sắc và đột phá về các khía cạnh liên quan đến Hữu thể và những cách thức mà nó được tiết lộ thông qua kinh nghiệm của con người. Ông đã tìm cách khám phá các cấu trúc hiện sinh định hình sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và vị trí của chúng ta trong đó, đồng thời cũng nghiên cứu sự liên hệ giữa Hữu thể và khái niệm về thời gian. Bằng cách nhấn mạnh vào các chủ đề hiện sinh này, Heidegger đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hiện tượng học, giúp thoát khỏi phương pháp hiện tượng học siêu nghiệm và trừu tượng hơn của Husserl. Ông đã mở rộng lý tưởng hiện tượng học, tạo ra một hướng đi mới mẻ và đầy hứa hẹn trong việc  nghiên cứu triết học và hiện tượng học. Kết quả là một lý thuyết hiện tượng học mới, nhấn mạnh vào tính chất phản ánh của con người và kinh nghiệm thực tế, mang lại sự hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới xung quanh chúng ta và vai trò của chúng ta trong nó. Phương pháp của Heidegger đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà triết học và nhà nghiên cứu sau này, góp phần phát triển nên những hướng đi mới trong nghiên cứu triết học và hiện tượng học. Ví dụ, những nhà triết học như Jean-Paul Sartre, Maurice Merleau-Ponty, và Hans-Georg Gadamer đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển ý tưởng của Heidegger, mở rộng ảnh hưởng của hiện tượng học và tạo nên những đóng góp quan trọng trong lịch sử triết học. Jean-Paul Sartre, nhà triết học nổi tiếng người Pháp, đã đóng góp đáng kể vào lĩnh vực hiện tượng học thông qua việc kết hợp các chủ đề liên quan đến hiện sinh và khám phá sâu vào bản chất của tự do, ý thức và bản sắc con người trong cuộc sống. Ông đã tiếp cận các vấn đề này theo một cách độc đáo và mới mẻ, giúp mở rộng những kiến thức truyền thống của hiện tượng học. Sartre đã đưa ra một hệ thống hiện tượng học riêng biệt, trong đó ông tìm cách hiểu kinh nghiệm của cá nhân về thế giới như một tác nhân tự do và có trách nhiệm. Ông đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự lựa chọn, hành động và trách nhiệm cá nhân trong việc xác định cuộc sống và định hướng chính bản thân mỗi con người. Các tác phẩm của Jean-Paul Sartre, như "Hữu thể và hư vô", đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của hiện tượng học bằng cách giới thiệu các khái niệm và quan điểm mới. Trong những tác phẩm này, ông đã thảo luận về những khía cạnh quan trọng của tự do, ý thức và bản sắc con người, và đã giúp mở rộng tầm nhìn của con người về thế giới xung quanh họ. Bằng cách kết hợp các chủ đề hiện sinh với những nghiên cứu về bản chất của tự do, ý thức và bản sắc con người, Jean-Paul Sartre đã đưa ra một hệ thống tư tưởng hiện tượng học mới lạ, phong phú và đa dạng. Ông đã khích lệ mọi người suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống và vị trí của họ trong thế giới, từ đó giúp họ hiểu rõ hơn về bản thân và đưa ra những quyết định phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của con người. Maurice Merleau-Ponty, nhà triết học Pháp xuất sắc, không chỉ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Edmund Husserl và Martin Heidegger - hai nhà triết học hàng đầu, mà còn đã xây dựng và phát triển một hướng tiếp cận hiện tượng học độc đáo và riêng biệt so với những người đi trước. Ông đã khám phá ra một lĩnh vực triết học mới mẻ và hấp dẫn, khi đi sâu vào những khía cạnh chưa được tìm hiểu kỹ của hiện tượng học. Trọng tâm của Merleau-Ponty đặt ở bản chất hiện thân của trải nghiệm con người, điều mà ông cho rằng rất quan trọng trong việc hình thành hiểu biết của chúng ta về thế giới xung quanh. Ông nhấn mạnh vai trò của nhận thức, chuyển động cơ thể, và nhận thức không gian, trong việc khám phá và tiếp cận thế giới quan. Điều này giúp chúng ta nhìn nhận mối quan hệ giữa bản thân và môi trường xung quanh một cách tự nhiên hơn. Công trình của Merleau-Ponty đã trở nên nổi tiếng và gây ảnh hưởng lớn trong giới triết học, đặc biệt là qua tác phẩm đột phá của ông mang tên 'Hiện tượng học về tri giác'. Trong tác phẩm này, ông đã đi sâu vào việc nghiên cứu mối quan hệ phức tạp giữa cơ thể, thế giới, và trải nghiệm chủ quan của chúng ta về thực tại. Điều này đã mở ra một cánh cửa mới cho những người quan tâm tới hiện tượng học, khi họ có thể tìm hiểu thêm về quan điểm của Merleau-Ponty và những đóng góp của ông trong lĩnh vực này. Bằng cách nhấn mạnh vào bản chất hiện thân và sự đan xen của sự tồn tại, Merleau-Ponty đã đem đến một lớp phức tạp và chiều sâu mới cho tư tưởng hiện tượng học, giúp nâng tầm giá trị của lý thuyết này. Ông đã góp phần định hình lại cách chúng ta nhìn nhận và hiểu biết về thế giới xung  quanh, cũng như vai trò của bản thân con người trong việc tạo ra và diễn giải hiện tượng. Nhờ vào sự độc đáo và sáng tạo trong tư tưởng của mình, Merleau-Ponty đã mở rộng không gian nghiên cứu và thảo luận trong giới triết học hiện tượng học, đồng thời tạo ra một định hướng mới cho những nghiên cứu sau này. Một trong những đóng góp quan trọng của Merleau-Ponty là việc đưa ra khái niệm về "cơ thể chủ thể" (le corps propre), thể hiện sự liên kết mật thiết giữa cơ thể và nhận thức. Ông cho rằng cơ thể không chỉ là một công cụ để chúng ta tương tác với thế giới, mà còn là một bộ phận quan trọng trong việc hình thành nhận thức và trải nghiệm của chúng ta. Nhờ vào khái niệm này, Merleau-Ponty đã đưa ra một hướng tiếp cận mới mẻ và đầy hấp dẫn trong việc nghiên cứu hiện tượng học, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa cơ thể, tâm trí và thế giới xung quanh. Ngoài ra, Merleau-Ponty cũng đã mở rộng ảnh hưởng của hiện tượng học đến các lĩnh vực khác như nghệ thuật, văn hóa và xã hội học. Ông đã áp dụng những ý tưởng và khái niệm từ hiện tượng học vào việc phân tích các tác phẩm nghệ thuật, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách mà nghệ thuật và văn hóa tương tác và ảnh hưởng đến nhận thức của con người. Bằng cách này, ông đã đem đến một cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về vai trò của nghệ thuật trong đời sống con người, đồng thời góp phần nâng cao giá trị và ý nghĩa của hiện tượng học trong các lĩnh vực ngoài triết học. Bản chất đa dạng và sự phát triển không ngừng nghỉ của hiện tượng học được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm của nhiều nhà triết học và nhà tư tưởng xuất sắc sau này, bao gồm những nhân vật nổi tiếng như Emmanuel Levinas, Hans-Georg Gadamer và Hannah Arendt. Mỗi người trong số họ đã góp phần mang đến những quan điểm độc đáo và những mối quan tâm riêng biệt của mình cho hiện tượng học, tiếp tục mở rộng tầm nhìn và làm phong phú thêm phạm vi của lĩnh vực này. Cụ thể hơn, Emmanuel Levinas đã tập trung nghiên cứu vào các khía cạnh đạo đức trong trải nghiệm của con người, khám phá những mối quan hệ phức tạp giữa các cá nhân và những cuộc gặp mặt trực tiếp định hình sự hiểu biết của chúng ta về 'Kẻ-khác'. Bằng cách làm sáng tỏ những điểm mấu chốt này, Levinas đã giúp hiện tượng học đánh giá sâu hơn về tầm quan trọng của các mối quan hệ giữa con người và những gì xung quanh họ. Mặt khác, Hans-Georg Gadamer đã chú tâm đi sâu vào lĩnh vực thông diễn học, nghiên cứu các quá trình diễn giải và hiểu biết như là cơ sở để kết nối chúng ta với thế giới xung quanh. Bằng cách xem xét các khía cạnh này, Gadamer đã đưa hiện tượng học đi xa hơn, không chỉ là một phương pháp tiếp cận hiện tượng, mà còn là cách chúng ta tiếp nhận, diễn giải và hiểu thế giới thông qua ngôn ngữ và văn hóa. Hannah Arendt, nhà triết học chính trị tài năng, đã sử dụng những hiểu biết hiện tượng học để phân tích bản chất của quyền lực, uy quyền và tình trạng con người trong bối cảnh đời sống chính trị. Arendt đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về việc làm thế nào hiện tượng học có thể được áp dụng vào phân tích các hệ thống chính trị, đồng thời giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự tác động của quyền lực đến đời sống con người. Nhờ đó, hiện tượng học đã được đưa vào bối cảnh thực tiễn và trở thành một công cụ hữu ích để giải quyết các vấn đề chính trị và xã hội phức tạp. Nhìn chung, các nhà triết học và nhà tư tưởng đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển và mở rộng của hiện tượng học. Những ý tưởng và quan điểm độc đáo của họ đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hiện tượng học và cách nó có thể được áp dụng vào các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Việc mở rộng ý nghĩa của các khái niệm và ý tưởng trong lĩnh vực này sẽ tiếp tục là một nhiệm vụ quan trọng của các nhà nghiên cứu và nhà tư tưởng trong tương lai, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh mình và giải quyết các vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Sự phát triển không ngừng của hiện tượng học với tư cách là một bộ môn đang ngày càng chứng tỏ khả năng phục hồi và khả năng thích ứng của nó. Bởi vì hiện tượng học luôn chấp nhận những thách thức mới, nó đang tiếp tục phát triển và đối mặt với những yêu cầu mới mà thế giới đang đặt ra. Khác xa với một trường phái triết học giáo điều, cứng nhắc, hiện tượng học đang chứng minh rằng nó có thể kết hợp những hiểu biết mới lạ từ nhiều nguồn khác nhau để tạo ra các giải pháp độc đáo và sáng tạo. Sự cởi mở và sẵn sàng thay đổi của hiện tượng học là một trong những đặc điểm nổi bật nhất, và chính phẩm chất này đã cho phép nó tiếp tục là một lĩnh vực quan trọng và có liên quan trong nghiên cứu triết học. Với sự phát triển không ngừng và sự khéo léo trong việc thích ứng với môi trường, hiện tượng học đã trở thành một ngành học có tính ứng dụng cao và đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực như khoa học, công nghệ, kinh tế và xã hội.  Đúng với tầm ảnh hưởng của ông, Husserl được coi là một trong những nhân vật có tầm ảnh hưởng nhất đối với triết học phương Tây trong thế kỷ XX. Ông đã đưa ra một số ý tưởng quan trọng, bao gồm khái niệm về "thế giới trực tiếp", "tâm lí học phi thường", và phương pháp "giải phẫu phân tích". Những đóng góp của Husserl đã có ảnh hưởng đến nhiều trường phái triết học khác nhau, bao gồm phân tích và hiện tượng học, triết học phân tích, triết học phản ánh, triết học nhân văn, triết học tôn giáo, và triết học xã hội. Các nhà triết học nổi tiếng như Martin Heidegger, Maurice Merleau-Ponty, Jean-Paul Sartre, Jacques Derrida, và Emmanuel Levinas đều đã bắt đầu sự nghiệp của mình bằng việc nghiên cứu về hiện tượng học của Husserl. Ngoài ra, các nhà triết học nổi tiếng khác như Max Scheler và Edith Stein, cũng là đồng nghiệp của Husserl, đã đóng góp đáng kể cho việc phát triển và mở rộng hiện tượng học của ông. Ngoài ra, nhà triết học Mỹ John Dewey và nhà xã hội học người Đức Alfred Schütz cũng đã được coi là những người phát triển và ứng dụng các ý tưởng của Husserl trong lĩnh vực của họ. Tuy nhiên, ý tưởng của Husserl cũng đã bị chỉ trích và tranh luận rộng rãi. Nhiều nhà triết học, bao gồm Ludwig Wittgenstein và Martin Heidegger, đã đưa ra các lập luận phản bác về các khái niệm chủ yếu của Husserl. Ngoài ra, các nhà triết học khác cũng đã tranh luận về tính khả thi và giá trị của phương pháp "giải phẫu phân tích" của Husserl trong nghiên cứu triết học. Các sinh viên và đồng nghiệp của Husserl đã đóng góp đáng kể trong việc phát triển và mở rộng hiện tượng học như một bộ môn triết học. Edith Stein, một trong những sinh viên nổi tiếng nhất của Husserl, đã đóng góp đáng kể cho việc phát triển hiện tượng học, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm lí học. Cô đã sử dụng phương pháp hiện tượng học để nghiên cứu về sự đồng cảm và sự liên kết của con người. Cô cũng đã đóng góp cho việc phát triển các khái niệm về bản thể học và triết lý của hiện tượng học. Max Scheler, một đồng nghiệp của Husserl, đã mở rộng công việc của ông để khám phá bản chất của các giá trị và cảm xúc. Ông đã đóng góp cho việc phát triển khái niệm về "giá trị khả năng" và "giá trị trật tự" trong triết lý của hiện tượng học. Roman Ingarden, một sinh viên của Husserl, đã tập trung vào lĩnh vực bản thể học và cấu trúc của tác phẩm văn học. Ông đã phát triển các khái niệm về "đối tượng tác phẩm" và "hình thức tác phẩm" trong triết lý của hiện tượng học. Dietrich von Hildebrand, một đồng nghiệp của Husserl, đã đóng góp vào sự phát triển của đạo đức dựa trên giá trị dựa trên những hiểu biết sâu sắc về hiện tượng học. Ông đã phát triển khái niệm về "giá trị đạo đức tuyệt đối" và "trật tự giá trị" trong triết lý của hiện tượng học. Các nhà triết học hiện sinh, bao gồm Nicolai Hartmann, Gabriel Marcel, Maurice Merleau-Ponty và Jean-Paul Sartre, đều có đóng góp quan trọng cho lĩnh vực hiện tượng học và cùng nhau phê bình ý tưởng của Edmund Husserl. Nicolai Hartmann đã áp dụng quan điểm hiện thực của mình về hiện tượng học, cho rằng thế giới vật chất tồn tại độc lập với nhận thức của con người và được xác định bởi các thuộc tính khách quan. Trong khi đó, Gabriel Marcel tập trung vào tầm quan trọng của trải nghiệm cá nhân, bí ẩn và siêu việt trong sự tồn tại của con người, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ liên kết giữa nhận thức và thực tế. Maurice Merleau-Ponty tập trung vào mối quan hệ giữa cơ thể và thế giới, và Jean-Paul Sartre nhấn mạnh vai trò của tự do và trách nhiệm cá nhân trong việc xác định ý nghĩa của hiện tượng. Tổng quan, các nhà triết học này đã cùng đóng góp cho việc phát triển và phê bình hiện tượng học trong thế kỷ 20. Các nhà triết học Pháp trong lịch sử đã đóng góp nhiều vào việc phát triển và mở rộng lĩnh vực hiện tượng học Husserl. Trong số đó, Jean-Luc Marion đã khai thác một khái niệm mới là "hiện tượng bão hòa", giúp vượt qua giới hạn của chủ ý và tạo ra một sự thách thức đối với khuôn khổ của Husserl. Michel Henry đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của bản ngã và tính cảm xúc trong quá trình phát triển của "hiện tượng học cấp tiến". Emmanuel Levinas đã phê bình sự tập trung quá mức vào tính chủ ý của Husserl và đưa ra đề xuất về hiện tượng học dựa trên đạo đức và tập trung vào cuộc gặp gỡ trực diện với Kẻ-khác. Trong khi đó, Jacques Derrida - một nhân vật chủ chốt trong chủ nghĩa hậu cấu trúc và giải cấu trúc - đã phê phán thuyết trung tâm luận của Husserl, khám phá tính không xác định của ý nghĩa và vai trò của sự khác biệt trong ngôn ngữ. Tất cả những đóng góp này đã làm cho lĩnh vực hiện tượng học Husserl trở nên phong phú và đa dạng hơn.   Các nhà xã hội học như Alfred Schütz và Eric Voegelin đã áp dụng những kiến thức về hiện tượng học để nghiên cứu và phân tích đời sống xã hội một cách tỉ mỉ và chi tiết. Alfred Schütz, người đã được đào tạo bởi Husserl, đã phát triển lý thuyết xã hội học hiện tượng học, tập trung vào việc xây dựng và định nghĩa ý nghĩa giữa các cá thể trong cuộc sống hàng ngày. Bằng cách xem xét vai trò của các điển hình xã hội, thế giới sống và mối liên hệ của hiện tượng học với khoa học xã hội, ông đã giúp chúng ta có được cái nhìn sâu sắc hơn về cách mà xã hội được hình thành và phát triển theo thời gian. Eric Voegelin đã sử dụng các phương pháp của hiện tượng học để khám phá các trải nghiệm chính trị và tôn giáo, và điều tra vai trò của thần thoại, biểu tượng và trật tự trong việc định hình xã hội loài người. Bằng cách sử dụng các phương tiện này, ông đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các lực lượng văn hóa và tôn giáo mà đã ảnh hưởng đến phát triển xã hội và những giá trị xã hội của chúng ta. Nhờ vào sự đóng góp của những nhà xã hội học này, chúng ta có được một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về xã hội và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nó, giúp chúng ta có thể đưa ra các giải pháp và quyết định thông minh và hiệu quả hơn trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong tương lai. Các nhà triết học Kitô giáo, như Dallas Willard, đã sử dụng hiện tượng học của Husserl để tạo ra các khuôn khổ thần học và triết học riêng cho họ. Điều này có nghĩa là họ đã sử dụng các khái niệm và lý thuyết của Husserl về hiện tượng học để đưa ra các lý luận và quan điểm đặc biệt về tâm linh và triết học Kitô giáo. Các tác phẩm của Willard đã kết hợp những khái niệm tâm linh Kitô giáo với hiện tượng học. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hình thành tâm linh trong đời sống con người và vai trò quan trọng của tâm trí trong quá trình này. Ông cũng đã nghiên cứu sự phát triển của thế giới quan Kitô giáo và đưa ra những suy nghĩ sâu sắc về sự tương tác giữa tâm linh và thế giới. Từ đó, những khuôn khổ triết học của Willard mang tính độc đáo đã được hình thành. Những khuôn khổ này tập trung vào việc nghiên cứu tâm linh và tầm quan trọng của nó đối với con người. Điều này cho thấy rằng Willard đã tạo ra một phương pháp tiếp cận mới cho việc khai thác các khía cạnh tâm linh của con người và đưa chúng vào các khuôn khổ triết học cụ thể. Mặc dù không phải là một nhà hiện tượng học chuyên nghiệp, nhưng nhà hoạt động xã hội và học giả người Mỹ Angela Davis đã bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng của Husserl, đặc biệt là trong công trình của bà về lý thuyết phê bình, chủng tộc và nữ quyền. Bà đã áp dụng những khái niệm của Husserl về hiện tượng học để phân tích những vấn đề xã hội quan trọng, chẳng hạn như chủng tộc, giới tính và giai cấp. Có thể thấy sự gắn bó của Davis với hiện tượng học khi bà khám phá những điểm giao nhau giữa các yếu tố này và nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm sống và tính chủ quan trong việc hiểu và thách thức những bất công xã hội. Bằng cách sử dụng lý thuyết phê bình, Davis đã đưa ra các đánh giá phân tích về các thực tiễn xã hội và vấn đề chính trị hiện đại, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tình trạng đói nghèo, bất công và định kiến. Với sự ảnh hưởng của Husserl, Davis đã xây dựng một cách tiếp cận mới đối với việc phân tích và đối phó với các vấn đề xã hội và chính trị, tập trung vào sự giao thoa giữa các yếu tố chủng tộc, giới tính và giai cấp. Sự nhạy cảm và sự hiểu biết của bà về các vấn đề này đã đưa ra những quan điểm đầy cảm hứng và sâu sắc về sự bất công và nạn đói trong xã hội, cũng như các hình thức phân biệt chủng tộc và giới tính. (còn tiếp)  
  • CHIẾN TRANH, HÒA BÌNH VÀ NỀN DÂN CHỦ TRONG THỜI ĐẠI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO (1)
    20/ 04/ 2023
    CHIẾN TRANH, HÒA BÌNH VÀ NỀN DÂN CHỦ TRONG THỜI ĐẠI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO (1) Ben Buchanan và Andrew Imbrie Nguyễn Trung Kiên lược dịch (kỳ 1)    Giới thiệu   Ngọn lửa bắt đầu với một tia lửa nhỏ. Tia lửa điện có thể phát ra từ hai que củi cọ xát với nhau, que diêm đang cháy âm ỉ bị lạc, sự cố về điện hoặc bất kỳ tác nhân vô hại nhưng dễ bay hơi nào. Tia lửa đốt cháy và, với nhiên liệu phù hợp, phát triển theo cấp số nhân. Thứ từng là ngọn lửa gần như vô hình có thể nhanh chóng biến thành ngọn lửa nhỏ, rồi bùng phát thành đám cháy dữ dội xé toạc cảnh quan và phá hủy mọi thứ trên đường đi của nó. Sức mạnh của lửa không chỉ đến từ sức nóng và khói mà còn từ sự gia tăng tốc độ và lực của nó; không được kiểm soát, nó sẽ hoành hành và hoành hành cho đến khi không còn gì để đốt. Tuy nhiên, lửa không chỉ hủy diệt mọi thứ, nó cũng là cơ sở cho nền văn minh. Từ những ngày đầu tiên, khả năng bắt đầu, kiểm soát và ngăn chặn đám cháy của loài người là điều kiện tiên quyết để làm ấm các hang động và mọi thứ tiếp theo. Nhiều phát minh mang tính hệ quả nhất - rèn kim loại, động cơ hơi nước, chế tạo thủy tinh và điện - xuất phát từ khả năng này. Một số nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng ngay cả sự phát triển của bộ não con người cũng phụ thuộc vào việc nấu thịt trên lửa, điều đó có nghĩa là thức ăn cần ít năng lượng hơn để tiêu hóaBằng nhiều cách, con người đã học cách khai thác sức mạnh theo cấp số nhân của lửa, sử dụng sức mạnh của nó cho mục đích tốt và chế ngự những mối nguy hiểm của nó. Nhân loại cũng đã sử dụng sức mạnh hủy diệt của lửa. Đế chế Byzantine đã sử dụng nó để đạt được thành công quân sự lớn, đầu tiên là trong cuộc vây hãm Constantinople vào năm 672 sau Công nguyên, và sau đó trong nhiều thế kỷ tiếp theo. Trong trận chiến, quân đội Byzantine đã bắn một hợp chất có công thức đặc biệt vào kẻ thù của họ, một hợp chất sẽ cháy ngay cả khi tiếp xúc với nướcKhi hợp chất tấn công mục tiêu, sức mạnh của lửa sẽ phát huy tác dụng, đốt cháy thiết bị của kẻ thù và khiến binh lính bỏ chạy. Kể từ đó, ngọn lửa chiến tranh chỉ trở nên chết chóc hơn. Có bao giờ có thể có một lực lượng khác hiệu quả và nguy hiểm như vậy, một lực lượng được xác định về cơ bản bằng sự tăng trưởng theo cấp số nhân của các thành phần cốt lõi của nó? Chào mừng đến với thời đại của trí tuệ nhân tạo. Khi chọn phép ẩn dụ về lửa để giải thích thời đại này, chúng tôi bác bỏ khẳng định phổ biến hơn và nhiều hy vọng hơn rằng trí tuệ nhân tạo là “dòng điện mới”Điện có ở mọi nơi trong cuộc sống hiện đại, phổ biến và được xã hội chúng ta làm chủ hoàn toàn đến mức chúng ta coi sự an toàn của nó là điều hiển nhiên. Không cần đắn đo suy nghĩ, chúng ta sống và làm việc bên cạnh những sợi dây điện khổng lồ mắc chằng chịt trong các khu dân cư của chúng ta và gia tăng sức mạnh cho cuộc sống của chúng ta. Phần lớn là do sự chuyên nghiệp hóa trong sản xuất, truyền tải và sử dụng điện, gần như mọi tương tác của con người hiện đại với dòng điện đều có lợi. Theo con đường tương tự, như ẩn dụ về điện ngụ ý, trí tuệ nhân tạo đang biến đổi xã hội không kém phần sâu sắc và không kém phần tích cực. Mặc dù điều này có thể đúng vào một ngày nào đó, nhưng hiện tại quan điểm này còn quá lạc quan Chúng ta chưa tiến gần đến việc làm chủ trí tuệ nhân tạo như chúng ta đã làm chủ điện gày nay, chúng ta gặp trí tuệ nhân tạo như tổ tiên xa xưa của chúng ta đã từng gặp lửa. Nếu chúng ta quản lý tốt công nghệ này, nó sẽ trở thành một lực lượng to lớn vì lợi ích toàn cầu, soi đường cho nhiều phát minh mang tính biến đổi. Nếu chúng ta triển khai nó quá nhanh và không có tầm nhìn xa đầy đủ, trí tuệ nhân tạo sẽ bùng cháy theo những cách mà chúng ta không thể kiểm soát. Nếu chúng ta khai thác nó để hủy diệt, thì nó sẽ tạo ra những vũ khí mạnh mẽ hơn cho các chính phủ mạnh nhất trên Trái Đất khi họ tham gia với nhau trong một cuộc cạnh tranh địa chính trị vốn dễ bùng nổ. Sự tương đồng thường xuyên với điện phủ nhận một loạt các kết quả có thể xảy ra này không khiến chúng ta an toàn hơn mà chỉ kém chuẩn bị hơn. Có ba tia lửa đã giúp đốt lên ngọn lửa mới: dữ liệu, thuật toán và sức mạnh tính toán. Các hệ thống trí tuệ nhân tạo ngày nay sử dụng sức mạnh tính toán để thực thi các thuật toán hướng dẫn máy móc cách học hỏi từ dữ liệu. Do sự tăng trưởng theo cấp số nhân về kích thước của tập dữ liệu, khả năng của thuật toán và sức mạnh của máy tính, thời đại của trí tuệ nhân tạo đã mang lại những tiến bộ khiến ngay cả một số người hoài nghi cũng phải sửng sốt.  Trí tuệ đã thể hiện khả năng tuyệt vời trong các lĩnh vực từ nhận dạng giọng nói và khuôn mặt đến tạo video, dịch ngôn ngữ, kể chuyện, v.v. Kết quả của những tiến bộ này là AI đã đi vào nhà và doanh nghiệp của chúng ta. Nó trao quyền cho Siri và Alexa, cung cấp các đề xuất khi chúng ta điều hướng trang web, giúp điều khiển ô tô của chúng ta trên đường cao tốc và âm thầm làm cho rất nhiều hệ thống công nghệ mà chúng ta sử dụng hàng ngày hoạt động tốt hơn trước đây. Ấn tượng hơn nữa, các hệ thống trí tuệ nhân tạo giờ đây có thể bắt chước các phẩm chất của con người, chẳng hạn như trí tưởng tượng và trực giác. Liên tiếp nhanh chóng, các hệ thống này đã đạt được những cột mốc quan trọng - bao gồm thành công trong các trò chơi đòi hỏi lập kế hoạch chiến lược cực kỳ phức tạp và đột phá trong một số vấn đề khoa học khó nhất - mà các chuyên gia từng nghĩ là hơn một thập kỷ. Rất có khả năng những tiến bộ trí tuệ nhân tạo mạnh mẽ và đáng ngạc nhiên hơn nữa sẽ xuất hiện trong những năm tới. Các khả năng mới của trí tuệ nhân tạo vừa là điều kỳ diệu vừa là sự xao nhãng. Quá thường xuyên, cuộc thảo luận về trí tuệ nhân tạo tập trung vào những gì công nghệ có thể làm, bỏ qua những người phát minh, tinh chỉnh và triển khai nó. Các nhà bình luận đưa ra những dự đoán nghẹt thở về sự xuất hiện của siêu trí tuệ có khả năng vượt quá khả năng nhận thức của loài người, nhưng họ ít xem xét cách trí tuệ nhân tạo tương tác với địa chính trị. Tuy nhiên, lịch sử nhắc nhở chúng ta rằng, từ xe ngựa đến đại bác, từ máy bay đến bom nguyên tử, điều quan trọng hơn bản thân sự đổi mới là cách thức và lý do mọi người sử dụng nó. Bất kỳ chương trình nghiên cứu nào về trí tuệ nhân tạo đều phải tập trung vào chúng ta - cách chúng ta khai thác ngọn lửa mới và cho mục đích gì. Cuốn sách này nói về sự lựa chọn của con người. Các quyết định mà mọi người trong các chính phủ, công ty và trường đại học đưa ra về trí tuệ nhân tạo sẽ chứng tỏ là một trong những quyết định quan trọng nhất của thế kỷ non trẻ này, cả về mặt công nghệ và địa chính trị. Trí tuệ nhân tạo buộc chúng ta phải đặt lại một số câu hỏi cơ bản về nhân loại: Chúng ta cai trị như thế nào? Làm thế nào để chúng ta chiến đấu? Và, có lẽ quan trọng nhất, chúng ta chiến đấu vì điều gì? Chúng tôi trình bày ba quan điểm cạnh tranh và đôi khi chồng chéo nhau – những người ủng hộ nhiệt thành, các chiến binh và Những người báo trước tai họa - về việc phải làm gì với công nghệ mới này. Những người ủng hộ nhiệt thành tin rằng nhân loại nên hướng ngọn lửa mới vì lợi ích của tất cả mọi người. Những người theo quan điểm này tin rằng trí tuệ nhân tạo có thể biến đổi nền văn minh nhân loại trở nên tốt đẹp hơn và lo lắng rằng việc sử dụng trí tuệ nhân tạo làm vũ khí chiến tranh và địa chính trị sẽ làm xao nhãng tất cả những điều tốt đẹp mà nó có thể mang lại cho nền văn minh. Bản thân họ thường là những nhà nghiên cứu và tiên phong về trí tuệ nhân tạo, được thúc đẩy bởi mong muốn “giải quyết vấn đề thông minh” như một phương tiện để phá vỡ một số bí ẩn hóc búa nhất trong khoa học. Vào thời điểm mà việc khám phá và phát minh khoa học dường như khó khăn hơn bao giờ hết, những người ủng hộ nhiệt thành muốn chế tạo những cỗ máy có thể nhìn, sáng tạo, lập kế hoạch và hỗ trợ nhân loại phát huy hết tiềm năng của mình. Cũng giống như việc khám phá ra lửa, những khám phá về trí tuệ nhân tạo - hoặc bởi trí tuệ nhân tạo - sẽ mở ra một tiêu chuẩn mới về cuộc sống của con người và một mức độ hiểu biết mới. Những người ủng hộ nhiệt thành tin rằng nếu chúng ta quản lý nó tốt, sức mạnh theo cấp số nhân của ngọn lửa mới có thể thúc đẩy tất cả chúng ta tiến về phía trước và mang lại lợi ích tổng thể cho tất cả mọi người. Các chiến binh muốn khai thác ngọn lửa mới không chỉ cho khoa học mà còn cho an ninh quốc gia. Cũng giống như hầu hết mọi quân đội kể từ thời Byzantine đã sẵn sàng và có thể thiêu rụi kẻ thù của mình bằng loại ngọn lửa này hay loại khác, nhiều chiến lược gia ngày nay nghĩ rằng trí tuệ nhân tạo có thể hữu ích trong việc ngăn chặn và giành chiến thắng trong các cuộc chiến. Họ tin rằng một số vấn đề bị loại bỏ khỏi cạnh tranh địa chính trị và rằng các quốc gia sẽ hành động với trí tuệ nhân tạo giống như họ làm với bất kỳ vấn đề toàn cầu nào khác, chẳng hạn như biến đổi khí hậu hoặc đại dịch: với tư cách là những người chơi tư lợi, thường cạnh tranh và chỉ đôi khi hợp tác với nhau. Các chiến binh tin rằng, các nền dân chủ nói riêng phải sẵn sàng sử dụng ngọn lửa mới, nếu không họ có nguy cơ đứng ngoài quan sát khi các chế độ chuyên chế sử dụng trí tuệ nhân tạo để tập trung quyền kiểm soát trong nước và mở rộng ảnh hưởng của họ trên toàn cầu; chậm thích nghi là nhường lợi thế cho người khác. Các chiến binh thừa nhận nhu cầu triển khai trí tuệ nhân tạo vì lợi ích an ninh và địa chính trị có thể đáng lo ngại, nhưng sẽ thật ngây thơ nếu bỏ qua nó. Đôi khi thế giới có tổng bằng 0 nhiều hơn những gì chúng ta muốn thừa nhận. Những người báo trước tai họa (Cassandra) sợ ngọn lửa mới này. Được đặt tên theo nữ tư tế thành Troy có những lời tiên tri phù hợp nhưng bị bỏ qua, những người báo trước tai họa cho rằng trí tuệ nhân tạo ít hữu ích hơn và nguy hiểm hơn nhiều người đề xuất dự đoán. Trong khi các chiến binh lo lắng rằng các nền dân chủ có thể quá chậm chạp trong việc áp dụng trí tuệ nhân tạo vào an ninh quốc gia, thì những người báo trước tai họa lo ngại rằng các quốc gia có thể làm như vậy quá nhanh. Những điểm yếu nội tại của trí tuệ nhân tạo khiến họ lo ngại, cũng như khả năng trở nên mạnh mẽ và kém cỏi của nó; họ cảnh báo rằng các hệ thống trí tuệ nhân tạo sẽ thất bại thảm hại vào những thời điểm quan trọng. Nếu được triển khai quá nhanh và không có tầm nhìn xa đầy đủ cũng như các ràng buộc về đạo đức, trí tuệ nhân tạo có thể có sức tàn phá khủng khiếp và tổng tiêu cực - không phải theo nghĩa của một Kẻ hủy diệt báo thù mà là theo sức mạnh vô cảm của một ngọn lửa gầm thét. Chúng tôi sử dụng quan điểm của những người ủng hộ nhiệt thành, chiến binh và những người báo trước tai họa để phản ánh các giả định khác nhau và các điểm nhấn mạnh khác nhau, nhưng đôi khi đường giữa sự phân nhóm này bị mờ đi. Trong khi một số người có thể giữ quan điểm giống nhau về nhiều vấn đề tại giao điểm của trí tuệ nhân tạo và địa chính trị, thì những người khác thay đổi quan điểm tùy thuộc vào câu hỏi. Một người ủng hộ nhiệt thành có thể lo lắng về những rủi ro của trí tuệ nhân tạo, giống như một chiến binh hoặc một người báo trước tai họa có thể tin vào lợi ích tiềm tàng của công nghệ vì lợi ích chung. Cả ba quan điểm đều có giá trị của chúng. Trí tuệ nhân tạo rất ấn tượng về mặt kỹ thuật và có vẻ như công nghệ này có thể hỗ trợ cho những khám phá giúp cuộc sống của phần lớn nhân loại trở nên phong phú và tốt đẹp hơn. Đồng thời, trí tuệ nhân tạo đã trở thành lĩnh vực cạnh tranh gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và giữa các lực lượng dân chủ và chuyên chế rộng lớn hơn. Cả hai siêu cường này đều đầu tư hàng tỷ đô-la mỗi năm vào trí tuệ nhân tạo, không chỉ để thúc đẩy nhân loại phát triển mà còn để đạt được lợi thế kinh tế và quân sự so với bên kia. Sự cạnh tranh này, giống như ngọn lửa mới, chỉ đang tăng tốc. Các chiến binh có quyền muốn các nền dân chủ giành chiến thắng, nhưng những người báo trước tai họa có quyền cảnh báo về một cuộc chạy đua xuống đáy với những tác động có hại đến nhân quyền, độ tin cậy của công nghệ và an ninh quốc tế. Sự tương tác giữa ba quan điểm sẽ quyết định những gì AI có thể làm, ai sẽ được hưởng lợi từ nó và hậu quả nào sẽ xảy ra với tất cả chúng ta. Đại diện của mỗi quan điểm này sẽ được xem xét trong các trang sách tiếp theo. Một số đẩy biên giới công nghệ của trí tuệ nhân tạo về phía trước, tạo ra những bước đột phá mà trước đây không thể đo lường được. Những người khác sắp xếp những phát minh này để thúc đẩy lợi ích của quốc gia họ, dù là dân chủ hay chuyên quyền. Vẫn còn những người khác kêu gọi sự thận trọng, cảnh báo rằng chúng ta đang vượt qua ranh giới đạo đức hoặc tạo ra những hậu quả không lường trước được. Đôi khi những người báo trước tai họa có thể thành công với nỗ lực giảm thiểu rủi ro, nhưng cạnh tranh địa chính trị và nghiên cứu trí tuệ nhân tạo sẽ tiếp tục tăng tốc. Trí tuệ nhân tạo sẽ định hình nghệ thuật quản trị nhà nước và kỹ thuật quản trị nhà nước sẽ định hình trí tuệ nhân tạo.   TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ NGHỆ THUẬT QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC Đầu tiên, chúng ta phải khám phá những tia lửa của ngọn lửa mới. Phần I, “Đánh lửa”, xem xét bộ ba dữ liệu, thuật toán và sức mạnh tính toán. Các chương này cho thấy các hệ thống trí tuệ nhân tạo hiện đại đánh dấu sự thay đổi đáng chú ý như thế nào so với các thập kỷ trước của công nghệ phần mềm. Với một số loại trí tuệ nhân tạo đời đầu và các dạng phần mềm truyền thống khác, các nhà phát triển đã đưa ra hướng dẫn cho những sáng tạo của họ và xem những cỗ máy đó thực hiện chúng theo cách thuộc lòng. Với trí tuệ nhân tạo hiện đại, các nhà phát triển phần mềm hướng dẫn hệ thống cách học, cung cấp cho nó dữ liệu hoặc môi trường để trích xuất các mẫu và cung cấp sức mạnh tính toán phong phú. Kiến trúc kỹ thuật khác biệt này tạo ra khả năng cho các hệ thống trí tuệ nhân tạo có khả năng tạo ra các phát minh của riêng chúng và hình thành những hiểu biết của riêng chúng. Như các chương này cho thấy, ý nghĩa địa chính trị của những tiến bộ kỹ thuật của những người ủng hộ nhiệt thành về dữ liệu, thuật toán và sức mạnh tính toán là không thể tránh khỏi và các chiến binh nhanh chóng phát hiện ra chúng. Các cuộc thi học thuật về nhận dạng hình ảnh trên máy tính, dựa trên các tập dữ liệu khổng lồ, thúc đẩy các chính phủ phát triển các công cụ để tự động hóa phân tích hình ảnh thông minh. Các thuật toán chiếm ưu thế tại một số trò chơi điện tử và trò chơi cờ phức tạp nhất trên Trái Đất thúc đẩy các khoản đầu tư và tiến bộ quân sự. Việc tạo ra những con chip máy tính mạnh mẽ hơn bao giờ hết đẩy các hệ thống trí tuệ nhân tạo lên một tầm cao công nghệ mới, nhưng cũng dẫn đến những cuộc đối đầu khốc liệt giữa các quốc gia đối thủ về quyền kiểm soát chuỗi cung ứng thiết bị sản xuất chip. Nhưng trí tuệ nhân tạo có thể khiến chúng ta ngạc nhiên với những thành công của nó bao nhiêu thì nó cũng có thể khiến chúng ta bối rối bấy nhiêu với những thất bại của nó. Các hệ thống trí tuệ nhân tạo ngày nay sắc bén một cách đáng kinh ngạc trong một số lĩnh vực và kém cỏi một cách đáng kinh ngạc ở những lĩnh vực khác. Tồi tệ hơn, các hệ thống thất bại theo cách làm trầm trọng thêm những thành kiến đã có từ trước, tạo ra ảo tưởng về sự công bằng, đưa ra rất ít hoặc không có lời giải thích nào cho các quyết định của họ, khác xa hoàn toàn so với mong đợi của con người, bộc lộ sự thiếu hiểu biết hoàn toàn và làm gia tăng vào những tác hại lớn hơn - tất cả các kết quả đều có ý nghĩa quan trọng hậu quả địa chính trị tiêu cực. Chúng ta kết thúc phần I bằng cách khám phá nguồn gốc công nghệ của những thất bại này, cho thấy chúng thường xuất hiện như thế nào từ kiến trúc của chính trí tuệ nhân tạo hiện đại. Phần II, “Nhiên liệu,” cho thấy rằng, mặc dù trí tuệ nhân tạo có nhiều thất bại, nhưng những thành công của nó quá quyến rũ khiến các chiến binh không thể cưỡng lại. Các quốc gia đã đưa trí tuệ nhân tạo vào sử dụng để phục vụ lợi ích an ninh của họ. Các nhà lập kế hoạch của chính phủ tin rằng trí tuệ nhân tạo chắc chắn sẽ có ý nghĩa chiến lược và họ thèm muốn những lợi thế mà nó mang lại cho quốc gia của họ. Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu này, không chỉ các chính phủ mới quan trọng mà còn cả các công ty tư nhân phát minh ra công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa khu vực tư nhân và khu vực công ngày nay gây nhiều tranh cãi hơn so với trước đây, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Theo truyền thống đã quen với việc đi đầu trong đổi mới công nghệ cao, Lầu Năm Góc hiện đang cố gắng bắt kịp. Nước Mỹ đã đạt được nhiều thành công khác nhau, từ trong các công ty công nghệ và đến nhà nghiên cứu học thuật trong nỗ lực giành lợi thế quân sự trước các quốc gia khác. Ngược lại, một số chiến lược gia lập luận rằng Trung Quốc thống nhất hơn trong cách tiếp cận (nếu không phải lúc nào cũng thực hiện), dựa nhiều vào các sản phẩm và nhân viên của các công ty công nghệ trong nước để thắt chặt sự độc tài chính trị đầy độc đoán của nó.  Cả hai quốc gia đang sử dụng trí tuệ nhân tạo để phát minh ra tương lai của chiến tranh và hòa bình. Có lẽ không có phát minh nào trong cuộc cạnh tranh địa chính trị này phù hợp hơn hoặc gây tranh cãi hơn vũ khí tự động gây chết người. Các chiến binh mơ về một trí tuệ nhân tạo có thể biến đổi chiến trường, vô hiệu hóa các mối đe dọa sắp tới và nhắm mục tiêu vào kẻ thù khi cần thiết trong khi vẫn tuân thủ các nguyên tắc đạo đức. Họ tưởng tượng ra các chiến thuật và khả năng mới, chẳng hạn như nhận dạng mối đe dọa tự động, chiến tranh bầy đàn bằng máy bay không người lái và hệ thống phòng thủ tên lửa tiên tiến. Họ khẳng định rằng quá nhiều sự giám sát của con người sẽ làm chậm quá trình chiến đấu, rằng chỉ các hệ thống hỗ trợ trí tuệ nhân tạo mới có thể phản ứng đủ nhanh trước những kẻ xâm lược do trí tuệ nhân tạo cung cấp và các hệ thống và máy móc quân sự phải trở nên có khả năng hơn nữa. Những giấc mơ đang nhích gần hơn với thực tế. Nhiều nhà lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ coi vũ khí tự động sát thương là chìa khóa để quản lý mối đe dọa từ Trung Quốc, một quốc gia đang gia tăng nhanh chóng mối lo ngại đối với các nhà hoạch định quốc phòng Hoa Kỳ. Để đi đến quan điểm này, Lầu Năm Góc đã đưa ra một loạt các thử nghiệm cho thấy vũ khí tự động sát thương sẽ tăng cường sức mạnh của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ như thế nào. Trong khi đó, Trung Quốc nói rằng họ sẽ ủng hộ việc cấm vũ khí hoàn toàn tự động trên chiến trường nhưng họ không phản đối việc phát triển hoặc sản xuất chúng - một quan điểm dường như không thể đứng vững. Các chuyên gia trong cộng đồng nhân quyền và kỹ thuật kêu gọi cả hai quốc gia nên thận trọng, cảnh báo rằng trí tuệ nhân tạo sẽ không thể thực hiện công việc giết người một cách chính đáng. Vũ khí động học không phải là cách duy nhất để gây hại. Khả năng mạng là một công cụ thiết yếu của nghệ thuật lãnh đạo hiện đại và trí tuệ nhân tạo sẵn sàng chuyển đổi bối cảnh kỹ thuật số. Các hệ thống trí tuệ nhân tạo đã giúp lập kế hoạch, triển khai và ngăn chặn các hoạt động mạng, vốn đã trở nên mạnh mẽ và phổ biến hơn. Tệ hơn nữa, bản thân các hệ thống trí tuệ nhân tạo cũng dễ bị tấn công và đánh lừa; chúng sở hữu tất cả những điểm yếu thường xuyên gây tai họa cho các hệ thống máy tính khác, cộng với những lỗi mới và gây khó chịu. Khi cạnh tranh địa chính trị gia tăng, các chiến binh sẽ cạnh tranh để hack quyền tự trị của các hệ thống của nhau, loại bỏ các khả năng ngoài tầm kiểm soát của người tạo ra chúng và khai thác các điểm yếu để đạt được lợi thế hơn những người khác. Thậm chí, một cách ngấm ngầm hơn, trí tuệ nhân tạo còn mang đến triển vọng tự động hóa các chiến dịch tuyên truyền và thông tin sai lệch, đổ thêm dầu vào ngọn lửa mới. Trí tuệ nhân tạo có thể viết văn bản có vẻ chân thực, tạo video có vẻ như thật và thực hiện tất cả những việc đó nhanh hơn và rẻ hơn bất kỳ con người nào có thể thực hiện. Trí tuệ nhân tạo cũng định hình bối cảnh mà từ đó các nỗ lực đưa thông tin sai lệch diễn ra. Nó ảnh hưởng đến câu chuyện nào xuất hiện trên nguồn cấp tin tức của Facebook, dòng tweet nào hiển thị trên dòng thời gian của Twitter và video nào sẽ xuất hiện tiếp theo trên chế độ tự động phát của YouTube. Các nền tảng Internet lớn đã trở thành đấu trường nơi các ý thức hệ xung đột hàng ngày, với những kẻ độc hại cố gắng dụ dỗ các thuật toán của công ty để làm cho thông điệp của họ trở nên lan truyền và các công ty đang cố gắng  -  và thường thất bại  -  sử dụng trí tuệ nhân tạo để ngăn chặn thông tin sai lệch và các hình thức thù địch khác. Phần III, “Cháy rừng”, xem xét ngọn lửa có thể bùng cháy ngoài tầm kiểm soát như thế nào. Nó tập trung vào việc làm thế nào để giảm thiểu nỗi sợ hãi - và đạt được an ninh - là một phần không thể xóa nhòa của nghệ thuật lãnh đạo hiện đại. Nhưng nhiệm vụ bảo vệ an ninh của mỗi quốc gia có thể đe dọa các quốc gia khác và làm trầm trọng thêm nỗi sợ hãi, đặc biệt là khi có sự tham gia của công nghệ mới. Chính nỗi sợ hãi này đã khiến các chiến binh đưa trí tuệ nhân tạo ra khỏi phòng thí nghiệm nghiên cứu và kết hợp nó vào các thiết kế vũ khí và kế hoạch chiến tranh, bao gồm cả xung đột hạt nhân. Vì việc kiểm soát vũ khí xung quanh trí tuệ nhân tạo còn rất mới, nên các chính phủ sử dụng trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ các nỗ lực tình báo của họ nhằm đạt được lợi thế trong thời bình so với những người khác. Sự cạnh tranh khốc liệt do trí tuệ nhân tạo hỗ trợ như vậy trong hòa bình và chiến tranh chỉ làm tăng khả năng chiến đấu và nguy cơ leo thang ngoài ý muốn.    (còn tiếp)
  • CUỘC CÁCH MẠNG CỘNG SẢN CỦA VIỆT NAM: QUYỀN LỰC VÀ NHỮNG GIỚI HẠN CỦA Ý THỨC HỆ (6)
    19/ 04/ 2023
    CUỘC CÁCH MẠNG CỘNG SẢN CỦA VIỆT NAM: QUYỀN LỰC VÀ NHỮNG GIỚI HẠN CỦA Ý THỨC HỆ (6) Vũ Tường Nguyễn Trung Kiên dịch (Kỳ 6) (Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5)   CHƯƠNG 2 CỦNG CỐ TẦM NHÌN LÊNIN-NÍT, 1931 -1940 Tháng 11 năm 1931, Trần Đình Long nhận lệnh trở về Đông Dương cùng với Lê Hồng Phong, bạn học của ông tại Moscow. Long và Phong mang theo 400 đô-la do QTCS cấp và được giới thiệu để tham gia vào ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD). Chúng ta không biết Long trở về bằng cách nào, nhưng sau đó Phong đã gửi báo cáo cho QTCS về cuộc hành trình đầy gian nan và trắc trở của mình. Hai người chia tay nhau ở Paris, và Phong chọn trở lại Việt Nam qua ngả Xiêm La vì ông có những người cần liên hệ ở đó, những người có thể tóm tắt cho ông về tình hình Đông Dương.[175] Tuy nhiên, khi đến Bangkok, ông mới được biết chính sách của Xiêm La đã thay đổi và bây giờ cần phải có hộ chiếu để nhập cảnh. Không thể vào Xiêm La, Phong đã đợi mười ngày trong một khách sạn trước khi lên tàu đến Hồng Kông. Thật không may, tất cả số tiền ông mang theo (bao gồm cả 400 đô-la) đã bị đánh cắp khi ông đến nơi. Thông thường, ông cất nhiều lượng tiền nhỏ ở nhiều nơi khác nhau trong vali và túi của mình, nhưng vào ngày đặc biệt đó, khi tên trộm ập vào, ông đã cất hết tiền vào một chỗ, theo cách không thể giải thích được. Phong phải bán chiếc áo khoác của mình với giá 5 đô-la (tiền Hồng Kông) để mua vé đi Quảng Châu. Ở đó, ông đăng ký theo học tại một trường đại học địa phương, tuyên bố rằng ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa người Việt, những người muốn học về chủ nghĩa Tôn Dật Tiên. Ông được mời đến gặp Hiệu trưởng trường đại học - người đã giúp ông liên lạc với các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) trong thị trấn. Một ngày nọ, bốn đảng viên VNQDĐ đến nói chuyện với Phong trong khách sạn của ông, và từ họ, ông biết được mối thù hận giữa các nhóm cộng sản chủ nghĩa người Việt ở Quảng Châu. Lo sợ danh tính của mình có thể bị lộ, đêm đó ông đã bán vali và một số quần áo với giá 30 nhân dân tệ và chuyển đến một khách sạn khác. Ông đã hành động chính xác, bởi vì, như một người bạn sẽ cho ông biết vài tháng sau đó, cảnh sát đã đến tìm ông vào ngày hôm sau. Sau đó, ông làm thợ máy ở Quảng Tây, và trong vòng một năm, ông đã liên lạc lại với các thành viên Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) ở miền Nam Trung Quốc và Xiêm La. Việc kể lại ngắn gọn về cuộc hành trình của Phong bằng giọng văn của ông gợi nên cảm giác về môi trường nguy hiểm mà những người cộng sản bí mật đang hoạt động. Trải nghiệm của Phong khá phổ biến ở các nhà cách mạng Việt Nam. Những năm tháng thú vị khi học tập ở Moscow được tiếp nối bằng những tháng ngày di chuyển trên tàu buôn, nhiều tuần trú tại khách sạn rẻ tiền, những công việc tạm thời và cư trú ở nước ngoài bằng tên giả, với những sơ suất, rủi ro và những vụ bắt bớ thường trực luôn chờ đợi. Nhiều đồng chí của Phong rời bỏ phong trào để sống một cuộc sống âm thầm hoặc tệ hơn là phản bội lý tưởng để làm gián điệp cho cảnh sát Pháp.[176] Những người vẫn giữ được cam kết như Phong hẳn phải có niềm tin sâu sắc hơn vào chính nghĩa, mặc dù chắc chắn niềm tin không phải là yếu tố duy nhất. Phong trở lại châu Á vào thời điểm quan trọng. Thập niên 1930 đã bắt đầu thật tốt đẹp nhưng hóa ra lại là một thập kỷ tàn khốc nhất đối với phong trào. Sáu tháng trước khi Phong rời Moscow, Trần Phú và Ngô Đức Trì đã bị cảnh sát Pháp bắt tại Sài Gòn. Nguyễn Ái Quốc và nhiều cộng tác viên chủ chốt ở miền Nam Trung Quốc và Hồng Kông bị bắt ngay sau đó.[177] Nhưng, như hành trình của Phong ngụ ý, vẫn có những tia hy vọng le lói bất chấp những lối thoát đầy chật hẹp. “CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC LÀ MỘT TRỜI MỘT VỰC” Thập niên 1930 đã bắt đầu với các sự kiện quốc tế trọng đại, bao gồm cuộc Đại suy thoái, quá trình công nghiệp hóa của Liên Xô và sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát-xít. Khi Trần Phú triệu tập một cuộc họp của các nhà lãnh đạo ĐCSĐD vào tháng 3 năm 1931 (sau này được gọi là Hội nghị toàn thể lần thứ hai), thế giới tư bản chủ nghĩa đã sụp đổ.[178] Thương mại bị đóng băng, các ngân hàng sụp đổ, và sản xuất hàng loạt bị thu hẹp trở lại. Hội nghị này ghi nhận rằng hơn 50 triệu công nhân đã thất nghiệp tại châu Âu và Hoa Kỳ. Nếu tính cả gia đình họ, tổng số người bị ảnh hưởng lên tới từ 150 đến 180 triệu người, hay một phần mười dân số thế giới. Ngược lại, ở Liên Xô, “sự phát triển của chủ nghĩa xã hội đang ‘lên vùn vụt’ và đã vượt xa kế hoạch”. Sản xuất công nghiệp hiện chiếm 70% nền kinh tế Liên Xô. Các nông trang tập thể chiếm gần một nửa tổng diện tích canh tác. Không chỉ tình trạng thất nghiệp biến mất mà còn thiếu hụt nhân công. Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD hy vọng rằng giờ đây “nhân dân lao động trên thế giới” có thể thấy sự tương phản hoàn toàn giữa các hệ thống tư bản và hệ thống Xô-viết. Một hệ thống chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế và xóa bỏ tình trạng thất nghiệp và ‘thống khổ’. Hệ thống kia đang suy sụp và công nhân đang phải chịu đựng nỗi thống khổ. Nghị quyết của Hội nghị toàn thể nhận thấy rằng các vấn đề trong thế giới tư bản và sự tiến bộ ở Liên Xô đã thúc đẩy các phong trào cách mạng ở khắp nơi.[179] Tại Đức, Hoa Kỳ, Pháp và Tây Ban Nha, hàng triệu công nhân đã tham gia các cuộc đình công gần đây. Các cuộc đình công này hiện đã đoàn kết công nhân ở nhiều quốc gia và mang tính quốc tế; chúng không phải là những cuộc đình công thông thường mà là những cuộc biểu tình chống lại toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa. Ở Miến Điện, Maroc, Peru, Argentina, Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Dương, các phong trào giải phóng cũng đã mở rộng bất chấp sự đàn áp của nhà nước. Ở Đông Dương, mặc dù phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh đã thoái trào, nhưng các nhà lãnh đạo ĐCSĐD cảm thấy được khích lệ bởi thực tế là cuộc đấu tranh nông dân đã tiến hóa lên hình thức tổ chức tiên tiến hơn và mang tính giai cấp rõ ràng hơn; bây giờ họ không chỉ chống lại chủ nghĩa đế quốc mà còn chống lại địa chủ và phong kiến ở địa phương.[180] Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD tin rằng các cuộc cải cách kinh tế không thể cứu vãn chủ nghĩa đế quốc được nữa. Biện pháp duy nhất của các nước đế quốc là sử dụng vũ lực, nhưng họ không thể làm như vậy mà không đàn áp phong trào cách mạng và đánh bại Liên Xô - “pháo đài của cách mạng thế giới ”. Bằng chứng về xu thế này đã được tìm thấy trong việc các nước tư bản áp dụng chiến thuật “phát-xít” để dẹp tan các phe đối lập trong nước, và trong quá trình họ bận rộn chuẩn bị cho chiến tranh. Các cáo buộc chung của họ chống lại “việc bán phá giá của Liên Xô” đã cho thấy âm mưu chống lại Liên Xô.[181] Mặc dù các nhà lãnh đạo ĐCSĐD đánh giá cao môi trường quốc tế thuận lợi, họ bày tỏ sự thất vọng sâu sắc với Đảng của mình. Một năm sau khi các nhóm cộng sản đầy bất hòa được thống nhất lại, và năm tháng đã trôi qua kể từ khi ban lãnh đạo mới của Trần Phú được thành lập, thực tế là Đảng vẫn còn rất ít đảng viên xuất thân từ công nhân. Các chi bộ nông thôn của nó đã được mở rộng nhanh chóng; trí thức và nông dân hiện nay chiếm 90% số đảng viên.[182] Các xứ ủy Bắc kỳ và Trung kỳ vẫn chưa hoạt động tập thể như một nhóm. Kỷ luật đảng ở một số chi bộ còn lỏng lẻo và chỉ dựa vào các thủ đoạn chỉ huy và đe dọa những chi bộ khác. Đối với các nhà lãnh đạo trung ương, những hiện tượng nói trên phản ánh tư duy và hành vi của “chế độ tư sản dân tộc”, chẳng hạn như “sợ đấu tranh” và “thiếu tin tưởng vào quần chúng”. Quyết định của một số xứ ủy không tổ chức đình công trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế vì sợ công nhân sẽ ủng hộ yếu ớt cho thấy sự sợ hãi đấu tranh. Một lỗi “tiểu tư sản” khác đã được tìm thấy trong những đòi hỏi các ông chủ không được trừng phạt người lao động bằng cách trừ nhiều hơn mức một phần ba tiền công hàng ngày của công nhân, hoặc phải cho người lao động nghỉ làm vào ngày Chủ nhật. Những đòi hỏi đó tỏ ra quá rụt rè.[183] Để khắc phục tình hình, nghị quyết của Hội nghị toàn thể kêu gọi bổ sung thêm nhiều công nhân vào các xứ ủy tại các miền, đồng thời loại bỏ “những trí thức cơ hội chủ nghĩa”.[178] Ngoài ra, mọi Đảng viên được kêu gọi loại bỏ các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong suy nghĩ và hành động của họ. Toàn Đảng phải thu hút nhiều công nhân hơn, tổ chức nhiều chi bộ hơn, và tập trung phát triển các công đoàn và đoàn thanh niên cộng sản (chứ không chỉ các hội nông dân). Rõ ràng, nghị quyết này nhằm thực hiện chính sách đấu tranh giai cấp của QTCS năm 1928-1929 như đã được thông qua tại Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Đảng vào tháng 10 năm 1930. Trong cuốn tiểu sử về Hồ Chí Minh, Quinn-Judge cho rằng Hồ tiếp tục bị Trần Phú chỉ trích ở điểm này. Bằng chứng của bà là một lá thư, trong đó, theo Quinn-Judge, Phú đã “cho rằng Hồ phải chịu trách nhiệm phần lớn về di sản của ‘các tổ chức cách mạng cũ’ [như VNTNCMĐCH] trong đảng của người Việt”.[185] Mặc dù Phú có đề cập đến di sản đó trong lá thư của mình, nhưng trên thực tế, ông đã tuyên bố rõ ràng rằng “chúng tôi lưu ý các ngài [tức các cán bộ của QTCS] đến vấn đề ‘không chỉ trích Kok [Quốc] , mà chỉ để nhắc nhở các ngài về cách ĐCSĐD thống nhất đã ra đời và điều đó đã tạo ra những hậu quả xấu xa như thế nào cho chúng ta cho đến tận ngày nay". [186] Vì vậy, Phú rõ ràng đã miễn trừ trách nhiệm cá nhân cho Quốc về vấn đề này. Bức thư đã đưa ra một lời chỉ trích cụ thể đối với Quốc, nhưng đây là về hành vi của ông, chứ không phải về lòng trung thành với QTCS hay khuynh hướng ý thức hệ của Quốc. Đặc biệt, bức thư yêu cầu không tiếp tục sử Quốc làm liên lạc viên giữa ĐCSĐD và QTCS “vì anh ta quá ngắn gọn và đôi khi đưa ra ý kiến riêng của mình mà không hỏi ý kiến các ngài. Kok [Quốc] liên lạc với cả Ban Chấp hành TW và Xứ ủy Bắc kỳ; anh ta yêu cầu mọi đảng viên phải báo cáo. Tình trạng này thật tồi tệ. Một đồng chí thậm chí đã hỏi chúng tôi: lãnh đạo của chúng tôi là ai, Ban Chấp hành TW hay Kok [Quốc]?”.[187] Không giống như những gì Quinn-Judge tuyên bố, căng thẳng giữa Quốc và Ban Chấp hành TW chỉ liên quan đến tệ quan liêu chứ không phải về bản chất ý thức hệ. Với tư cách là đại diện của QTCS, Quốc đã nhận và trả lời trực tiếp các báo cáo của cả Ban Chấp hành TW và các Xứ ủy trước khi chuyển các tài liệu đó cho Cục Phương Đông của QTCS tại Thượng Hải. Quốc nhận thức rõ ràng vai trò của mình là một người đại diện chứ không phải là một liên lạc viên. Chẳng hạn, trong một bức thư ngày 20 tháng 4 năm 1931, Quốc chỉ trích các xứ ủy của ĐCSĐD về nhiều vấn đề, từ cách họ triệu tập các cuộc họp đến cách họ thiết lập chương trình nghị sự và lập kế hoạch hành động. Ông trừng trị họ vì không tuân theo chỉ thị của QTCS để đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông nói với họ rằng tất cả bọn họ phải thảo luận về Chỉ thị của QTCS và nghị quyết của Ủy ban Trung ương ĐCSĐD, sau đó đưa ra nghị quyết của riêng mình về Chỉ thị và nghị quyết trên. Những nghị quyết [được ban hành tại địa phương] đó phải được gửi đến Ban Chấp hành TW, sau đó sẽ gửi chúng cùng với QTCS [để xem xét]. Chỉ khi thực hiện được các bước đó thì kỹ năng của người đảng viên mới được nâng lên, mới thực hiện được các chỉ thị, nghị quyết của QTCS và của Ban Chấp hành TW; mới có thể biết được liệu tư tưởng và hành động của đảng viên có thống nhất được không; QTCS có giám sát được kỹ năng cách mạng của đảng viên không; và có thể thực hiện triệt để việc liên lạc từ các chi bộ đến Ban Chấp hành TW và đến QTCS (vốn là mong muốn của QTCS).[188] Lời khuyên của Quốc đối với các xứ ủy, như vừa được đề cập, cho thấy rằng ông muốn một cấu trúc Đảng mang tính trung ương tập quyền hơn sẽ được đệ trình đầy đủ cho QTCS. Ở điểm này Quốc đã thực hiện trung thành vai trò đại diện của QTCS, hành động vì lợi ích của QTCS. Các quan chức của QTCS hẳn sẽ hài lòng với những gì Quốc báo cáo. Về phần mình, Ban Chấp hành TW ĐCSĐD cũng có thể thích lời chỉ trích của Quốc đối với các xứ ủy cấp dưới, nhưng rõ ràng là không thoải mái bởi thực tế là ông đã bỏ qua nó và liên lạc trực tiếp với các xứ ủy đó. Đây là lý do tại sao Trần Phú yêu cầu QTCS chỉ sử dụng Quốc như một liên lạc viên. [189] Lời khuyên của Quốc dành cho các xứ ủy cũng thể hiện sự sẵn sàng thực hiện chính sách đấu tranh giai cấp của QTCS được đưa ra tại Hội nghị lần VI vào năm 1928 của QTCS. Không giống như những gì Quinn-Judge suy đoán, không có bằng chứng nào cho thấy Quốc đã cố gắng kiềm chế việc thực hiện chính sách cực đoan chống lại trí thức và địa chủ của Xứ ủy Trung kỳ lúc bấy giờ.[190] Đầu năm 1931, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD bận tâm đến công tác tuyên truyền không kém gì so với các vấn đề tổ chức.[191] Vì Đảng còn rất non trẻ, các nhà lãnh đạo của Đảng muốn xây dựng “nền tư tưởng vô sản” giữa các đảng viên và giữa “quần chúng vô sản”.[192] Theo quan điểm của họ, tuyên truyền phải dựa trên tư tưởng và chính sách của Đảng; phải chịu sự giám sát của cơ quan chuyên môn dưới sự chỉ đạo của một Ủy viên Trung ương; và phải nhằm chống lại “các khuynh hướng sai lầm”, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng bởi các tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc, xu thế cải cách [nửa vời (ND)], hay xu thế hợp tác [với các kẻ thù giai cấp (ND)]. Tuyên truyền phải “rèn luyện các đảng viên và quần chúng vô sản theo tinh thần của chủ nghĩa Marx-Lenin, dạy họ làm theo đường lối đúng đắn của QTCS và của Đảng”. Nhân dân phải được thuyết phục rằng đường lối của Đảng không chỉ đúng đắn, mà là con đường đúng đắn ‘duy nhất’ dẫn đến chủ nghĩa cộng sản. Về phương pháp tuyên truyền, sự lặp lại là rất cần thiết: Đảng viên được khuyến cáo không nên lo lắng về việc mọi người sẽ chán khi nghe những thông điệp giống hệt nhau hàng ngày. Quan trọng nhất, tuyên truyền phải ‘xác thực’ và phải gắn với cuộc đấu tranh hàng ngày của quần chúng. “Chủ nghĩa Marx-Lenin là lý luận hành động cách mạng của giai cấp vô sản, không phải là lý luận ‘hư danh’.”[193] Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD nghiêm túc coi chủ nghĩa Marx-Lenin không phải là một giáo điều mà là một lý thuyết sống động hướng dẫn các hành động, gắn bó chặt chẽ và được hiện thực hóa thông qua các hành động cụ thể. Một cuộc khảo sát về cách thức tổ chức tuyên truyền và cách các thông điệp được nhấn mạnh sẽ mang lại thông tin hữu ích về niềm tin thực sự của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam tại thời điểm đó. Lịch cách mạng của ĐCSĐD, nơi tổ chức các hoạt động của họ, không có ngày tháng nào gắn liền với văn hóa, lịch sử hay con người Việt Nam. Thay vào đó, các lễ kỷ niệm ngày mất của Lenin, Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht (21 tháng 1), Ngày Quốc tế Phụ nữ (8 tháng 3), Công xã Paris (18 tháng 3), Ngày Lao động (1 tháng 5) và Cách mạng Nga (7 tháng 11) là những dịp để vận động.[194] Những ngày này là biểu tượng cho các cam kết của Đảng đối với phong trào cộng sản quốc tế, và các hoạt động này là một phần để nuôi dưỡng tinh thần cộng sản quốc tế trong các đảng viên. Ví dụ, vào ngày 8 tháng 3 năm 1931, Xứ ủy Nam kỳ của ĐCSĐD đã phát một tập sách nhỏ nói về sự tương phản trong địa vị của người phụ nữ giữa Liên Xô và các nước tư bản.[195] Phụ nữ dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, bao gồm cả phụ nữ ở Đông Dương, được cho là làm việc chăm chỉ với mức lương thấp; được đối xử như nô lệ tại nơi làm việc của họ; bị áp bức bởi hủ tục phong kiến; gánh nặng công việc gia đình; và bị bạo hành trong gia đình của họ. Ngược lại, ở Liên Xô, luật pháp tiến bộ cấm lao động nữ làm những công việc nguy hiểm và đảm bảo họ được trả mức lương thỏa đáng và thời gian nghỉ ngơi hào phóng. Họ được giải phóng khỏi gánh nặng của việc chăm sóc trẻ em và công việc gia đình được với 17.000 trung tâm chăm sóc và “các căng-tin tập thể” phục vụ 20 triệu người. Phụ nữ được giáo dục và được bầu vào những vị trí xứng đáng trong hệ thống chính trị. Ví dụ, 312.000 phụ nữ là thành viên của các hội đồng đại diện của công nhân và nông dân, và 56.000 phụ nữ là thành viên của các hội đồng công nhân. Họ chiếm 20% trong số thành viên của cấp ủy đảng. Cuốn sách nhỏ kết luận rằng chỉ khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, phụ nữ mới có thể có tự do và bình đẳng giới.[196] Cuốn sách nhỏ này gợi ý rằng chủ nghĩa Marx-Lenin không phải bao gồm một số tư tưởng trừu tượng mà là thông tin chân thực và cấu trúc nên các hoạt động hàng ngày của các nhà hoạt động cộng sản. Có nhiều sự thật trong tuyên bố rằng phụ nữ Liên Xô được hưởng bình đẳng giới cao hơn chị em của họ trong nhiều xã hội truyền thống và tư bản. Hình ảnh tổng thể về Liên bang Xô-viết nghe giống như một thiên đường, nhưng nó liên quan đến những mối quan tâm hàng ngày của phụ nữ: chăm sóc con cái, việc nhà và những sự lạm dụng trong gia đình. Cuốn sách nhỏ này đã truyền cảm hứng cho các nữ công nhân đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với người sử dụng lao động của họ: không phải làm công việc nguy hiểm, được trả lương cao, thời gian nghỉ phép dài, chăm sóc trẻ em và ăn uống tại căng-tin nhà máy. Nó đề xuất các hình thức tổ chức có thể có cho những người quan tâm; đó là các hội đồng công nhân và các chi bộ Đảng. Nhiệm vụ cuối cùng của việc lật đổ chủ nghĩa tư bản không phải là một mục tiêu trừu tượng mà gắn liền với những vấn đề thường ngày như vậy. Một ngoại lệ hiếm hoi đối với lịch hoàn toàn theo chủ nghĩa quốc tế của ĐCSĐD trong năm 1931 là lễ kỷ niệm đầu tiên của cuộc nổi dậy Yên Bái vào ngày 9 tháng 2 năm 1931. Tất nhiên, những sự kiện kịch tính vào ngày đó và sự tử vì đạo của các lãnh tụ mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa đã gây ấn tượng mạnh đối với tất cả người Việt Nam và ĐCSĐD các nhà lãnh đạo muốn chia sẻ sự ấn tượng đó. Tuy nhiên, họ không nhầm lẫn đối với lòng trung thành của mình. Trong một cuốn sách mỏng gồm 29 trang để hướng dẫn cán bộ về cách tổ chức sự kiện này, các nhà tuyên giáo của Đảng giải thích rằng ngày được chọn vì năm 1930 là năm khi làn sóng cách mạng lớn ở Đông Dương đã đạt đến một tầm vóc lịch sử, và các cuộc nổi loạn Yên Bái xảy ra đầu tiên trong năm đó.[197] Tuy nhiên, cuốn sách nhỏ giải thích, việc chọn ngày đó không có nghĩa là các nhà lãnh đạo ĐCSĐD đồng ý với ‘quốc gia chủ nghĩa’ và hoàn toàn tôn trọng các nhà lãnh đạo VNQDĐ đã hy sinh mạng sống của họ cho niềm tin đó. Thay vào đó, sự kiện này là “một thời điểm thích hợp cho người cộng sản để giải thích cho quần chúng lao động... mà chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân tộc là ‘một trời một vực’và hai chủ nghĩa này không bao giờ có thể chứa đựng [‘phân hợp’] lẫn nhau”. [198] Mục đích không phải để tưởng nhớ câc lãnh tụ theo chủ nghĩa dân tộc, mà để “sử dụng sự kiện này để mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản để quần chúng Đông Dương [sẽ] tham gia chiến đấu dưới sự lá cờ của chủ nghĩa cộng sản để lật đổ đế quốc, phong kiến và địa chủ, và thành lập chính phủ công-nông-binh”. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản Đông Dương sẽ không cô độc bởi vì “giai cấp vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa và bán thuộc địa đều là anh em và không bị chia rẽ bởi chủng tộc hay quốc tịch”. [199] “ĐÊM TRƯỚC CỦA LÀN SÓNG CÁCH MẠNG KHÁC” Cuối tháng 4 năm 1931, cảnh sát Pháp ở Sài Gòn bắt được Trần Phú, Ngô Đức Trì và gần như toàn bộ Ban Chấp hành TW. Phú qua đời sau đó sáu tháng trong khi bị bắt, mà không phản bội các đồng chí của mình.[200] Trì đầu thú và tiết lộ cho chính quyền mọi liên hệ của mình, dẫn đến nhiều vụ bắt giữ nữa. Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại Hồng Kông vào tháng 5 và sẽ ở tù hơn một năm trước khi được chính quyền Anh thả tự do. Sau đó, ông đã dành một thời gian ẩn náu ở miền Nam Trung Quốc trước khi lên đường sang Liên Xô vào năm 1934. ĐCSĐD đã sụp đổ với tư cách là một tổ chức, nhưng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam vẫn tồn tại nhờ niềm tin của những người sống sót và sự hỗ trợ quan trọng của QTCS. Đến thập niên 1930, mạng lưới các tổ chức và nhà hoạt động cộng sản của QTCS đã lan rộng trên một khu vực địa lý rộng lớn từ Thượng Hải đến Singapore và Sài Gòn, với các thủ đô Tây Âu đóng vai trò là trung tâm tuyển dụng, điểm đào tạo, trạm trung chuyển và trung tâm liên lạc. Mạng lưới này đã giúp các nhà cộng sản Việt Nam xây dựng lại tổ chức của họ, mặc dù, như sẽ thấy ở phần dưới, việc tái lập tổ chức là một nhiệm vụ khó khăn. Tại thời điểm này, ngọn đuốc cách mạng đã được truyền cho hai nhóm sinh viên mới tốt nghiệp tại trường Đại học Phương Đông, những người đã chia rẽ để trên hai con đường khác nhau. Một nhóm gồm Trần Đình Long và Lê Hồng Phong - người đã kể lại về cuộc hành trình về miền Nam Trung Quốc ở đoạn trước. Sau khi Phong ổn định cuộc sống, ông đón Hà Huy Tập và những người khác từ Moscow trở về. Nhóm này cùng nhau thành lập ‘Ban chỉ huy ở ngoài’ của ĐCSĐD và cố gắng chỉ đạo phong trào cộng sản ở Việt Nam.[201] Nhóm thứ hai gồm bộ đôi Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai, đến từ Nam kỳ và từng là sinh viên đại học ở Paris trước khi được đào tạo ở Moscow. Đây là các nhà cộng sản Việt Nam được giáo dục tốt nhất trong thế hệ của họ. Sau khi trở về Sài Gòn qua ngả Paris, Tạo và Mai cộng tác với những người bạn Trotskyist của họ từ những ngày còn ở Paris, như Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm, để tranh cử các ghế trong Hội đồng thành phố.[202] Lớn lên ở Nam kỳ, Tạo và Mai phát triển mạnh trong môi trường chính trị cởi mở ở đó, điều này càng trở nên cởi mở hơn sau khi Mặt trận Bình dân Pháp dưới thời Thủ tướng Léon Blum lên nắm quyền vào tháng 5 năm 1936. Cũng được đào tạo tại cùng một trường đại học, Tạo và Mai hoạt động hợp pháp và độc lập với bộ máy hành chính bí mật của QTCS vốn vẫn đang giám sát Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú và Lê Hồng Phong. Khơi dậy lòng trung thành đang giảm sút của các đảng viên sau quá nhiều mất mát là một phần công việc lớn của Phong và Tập với tư cách là các lãnh đạo mới của ĐCSĐD. QTCS trực tiếp điều phối nỗ lực này bởi nó cũng có sự tham gia của Đảng Cộng sản Pháp. Đầu năm 1932, một số nhóm tự xưng là “TW Đảng lâm thời” của ĐCSĐD đã gửi cho Đảng Cộng sản Pháp một bức thư. Các tác giả của bức thư này đã than thở rằng sự đàn áp của Pháp là một thảm họa đối với Đảng, lúc này Đảng đang ‘hấp hối’.[203] Thật kỳ lạ, bức thư này đổ lỗi cho thất bại của làn sóng cách mạng dâng cao trong những năm 1930-1931 cho ĐCSĐD cũng nhiều như cho sự tàn bạo của người Pháp. Xứ Đông Dương lạc hậu có một giai cấp vô sản nhỏ và yếu, nghĩa là tuyệt đại đa số đảng viên đều xuất thân từ nông dân và tiểu tư sản. Như bức thư kể lại: “Đảng Cộng sản được sinh ra từ những thành phần tiến bộ nhất của VNQDĐ cùng các lực lượng vô sản và nông dân”. [204] Do thành phần giai cấp không trong sạch như vậy, không thể tránh khỏi việc ĐCSĐD phải dựa vào “phương pháp đấu tranh vô chính phủ”. Nếu ĐCSĐD đã từng phục hồi sau sự sụp đổ, điều mà bức thư cho là một triển vọng không chắc chắn, thì nó sẽ cần được dẫn dắt bởi “một thành phần vô sản cốt cán”. Đảng cũng phải loại bỏ những phần tử dân tộc chủ nghĩa và tiểu tư sản. Lập trường giai cấp bức thư nhìn chung có vẻ đúng, và các tác giả của nó vẫn trung thành với ý thức hệ. Tuy nhiên, việc sử dụng các khái niệm một cách sai lạc và giọng điệu gần như tuyệt vọng của nó hẳn đã gây xúc động mạnh với các quan chức của QTCS khi họ đọc các đoạn trích của bức thư đăng trên tạp chí ‘Cahiers du Bolchévisme’ của Đảng Cộng sản Pháp.[205] Tại một cuộc họp của Văn phòng Đông phương ở Moscow vào ngày 4 tháng 4 năm 1932, lá thư đã được thảo luận và một “đồng chí Vasilieva” được giao nhiệm vụ liên lạc với ‘Bolchévisme.’ [206] Sau đó, Văn phòng QTCS yêu cầu Hà Huy Tập (khi đó vẫn đang ở Moscow) viết một bài phản bác để đăng ngay trên Bolchévisme. Tập được khuyên nên lập luận rằng thất bại chỉ là tạm thời. Sức mạnh của các phong trào cách mạng trên toàn thế giới, sự củng cố của chính quyền cộng sản Trung Quốc, sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, cuộc khủng hoảng kinh tế và các điều kiện sống ngày càng tồi tệ ở Đông Dương - tất cả đều cho thấy một cao trào cách mạng mới sẽ sớm xuất hiện. [207] Trong bài tiểu luận dài và đầy hùng biện của mình, Tập lưu ý rằng các lãnh tụ VNQDĐ tin vào ‘chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi’, và thất bại của họ là điều có thể đoán trước được.[208] Một số rất nhỏ đảng viên VNQDĐ đã chuyển sang ĐCSĐD sau cuộc nổi dậy bất thành ở Yên Bái, và những đảng viên này đã hoàn toàn chấp nhận lý thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, đa số đảng viên VNQDĐ vẫn giữ nguyên vẹn “chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản và hành vi dao động, khủng bố và bè phái của họ”.[209] Tập tuyên bố ĐCSĐD sẽ không có lợi khi kết nạp thành viên của VNDĐ. Ông tiếp tục bác bỏ những tuyên bố rằng ĐCSĐD đã sụp đổ, lưu ý rằng theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, cách mạng sẽ không tiến lên theo đường thẳng. Mặc dù ông thừa nhận rằng ĐCSĐD đã mắc sai lầm và phong trào đã bị một số tổn thất, nhưng Đảng còn lâu mới bị tiêu diệt. Với cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài và cuộc đấu tranh giai cấp căng thẳng ở Đông Dương và các nơi khác, bây giờ là “đêm trước của làn sóng cách mạng khác ”. Sự lạc quan của Tập không chỉ đơn giản là để trấn an những người đồng chí đang dao động mà có thể là bởi sự đánh giá sâu sắc các quá trình lịch sử của ông . Trước khi Tập rời Moscow đến miền Nam Trung Quốc vào cuối năm 1933, ông đã hoàn thành cuốn lịch sử dài 300 trang về phong trào cộng sản Đông Dương do QTCS xuất bản tại Moscow.[210] Tác phẩm thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của ông về phong trào với tư cách là một người trong cuộc ngay từ đầu và tính lý thuyết của ông đã dễ dàng vượt qua Trần Phú. Nghiên cứu này trải dài suốt một thập kỷ từ năm 1923 đến năm 1933, tức là từ VNTNCMĐCH đến ĐCSĐD. Nó phân tích các điều kiện lịch sử làm nảy sinh chủ nghĩa cộng sản, các chính sách thuộc địa ảnh hưởng đến phong trào, và các vấn đề lý luận và tổ chức mà phong trào phải vật lộn. Chương đầu tiên về VNTNCMĐCH đưa ra những nhận xét ngắn gọn được viết bằng văn phong đẹp đẽ về nguồn gốc của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam: “Phong trào cộng sản Đông Dương là đứa con của Cách mạng Nga... Thắng lợi của giai cấp công nhân ở một nước rộng lớn như nước Nga đã thức tỉnh tất cả các dân tộc trên toàn thế giới. [Khi tin tức lan đến], những người ở Đông Dương xa xôi đang rên xiết dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc Pháp, họ cũng tham gia cuộc đấu tranh của toàn thể quần chúng nhân dân bị áp bức trên thế giới để chống lại kẻ thù chung của họ là chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Nhưng nếu những tiếng đại bác Tháng Mười Nga lay động trái tim của quần chúng bị bóc lột ở Đông Dương và mang lại luồng gió mới cho họ, thì cách mạng Trung Quốc là người dẫn đường và là người thầy cần thiết mà số phận của nó không thể tách rời cách mạng Đông Dương”.[211] Bởi các tổ chức sớm nhất như VNTNCMĐCH đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng và phương pháp (dân tộc chủ nghĩa) của Trung Quốc, Tập lập luận rằng “người ta ngạc nhiên khi ý thức hệ của họ vẫn còn chưa rõ ràng, suy nghĩ của họ đầy tăm tối, và quan điểm của họ tự mâu thuẫn ”. Đối với ông, tình trạng như vậy cũng xuất phát từ thành phần giai cấp của các tổ chức đó, mà thành phần tiểu tư sản là chủ yếu. Các thành viên của tầng lớp này mang theo hệ tư tưởng, quan điểm và phương pháp của nó như chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa bè phái và khuynh hướng tiến hành cách mạng chớp nhoáng. Tuy nhiên, quan điểm dài hạn của ông Tập phép ông đưa ra một đánh giá tổng thể tích cực : “Mặc dù những tổ chức ban đầu đó mắc nhiều sai lầm, nhưng chúng đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Chúng là những tổ chức đầu tiên đưa những nhân tố mới vào phong trào giải phóng dân tộc. Chúng đã báo trước chủ nghĩa cộng sản ”. Mặc dù mọi người đều biết rằng Hà Huy Tập từng nêu lên những sai lầm của Nguyễn Ái Quốc suốt thời kỳ VNTNCMĐCH và ĐCSĐD, những phê phán này của ông phải được đặt ra ngoài bối cảnh ấy.[212] Sự nghiên cứu lịch sử của Tập đã giúp ông đã đưa ra một đánh giá cân bằng và tách biệt về những đóng góp của Quốc. Nghiên cứu mở đầu với những ghi nhận sau: “Tưởng nhớ: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, đã từ trần ngày 26 tháng 6 năm 1932 tại nhà tù Hồng Kông; Đồng chí Lý Quý [Trần Phú], Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, từ trần tháng 10 năm 1931 tại Sài Gòn; và tất cả những người đã hy sinh cho cách mạng Đông Dương”.[213]  (còn tiếp) * Nguồn: Tuong, Vu (2017). "Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology". Cambridge: Cambridge University Press.  
popup

Số lượng:

Tổng tiền: