• NHỮNG BÀI HỌC TỪ NGƯỜI SẮP QUA ĐỜI - RODNEY SMITH
    28/ 03/ 2022
    Một triết gia Đức vĩ đại, có thể là vĩ đại nhất trong các triết gia thuộc thế kỷ 20, là Martin Heidegger, đã nhận xét rằng con người là một “hữu quy tử” (Sein zum Tode). Con người chỉ sống một cách chân chính khi ý thức rằng mình đang trong cuộc lữ hành trở về nguồn cội căn nguyên nhất của mình là cái chết. Xưa nay con người mấy ai không run sợ khi nghĩ đến sự kết thúc này, may ra chỉ trừ những đấng anh hùng hảo hán hiên ngang tuyên bố “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử/ Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (Nhân sinh từ xưa ai không chết/ Một tấm lòng son chiếu sử xanh. Thơ Văn Thiên Tường). Phần lớn triết lý và tôn giáo của nhân loại đều bắt nguồn từ nỗ lực đáp ứng với sự thách đố tối hậu này. Nhưng có thực cái chết là sự kết thúc tất cả? Cát bụi trở về cát bụi? “Một cõi đi về” của Bùi Giáng hay “cõi người ta” của Nguyễn Du phải chăng là hệ lụy duy nhất của kiếp nhân sinh đầy khao khát sự bất tử? Chúng ta đã biết gì về sự chết? Theo triết gia Wittgenstein, một người vĩ đại không kém gì Heidegger, “chết” không phải là một sự vụ của nhân sinh, không phải là một phần của “sống,” nên chúng ta đành bó tay xem đó là một cái gì bất khả tri ngộ. Tác giả Rodney Smith, một hành giả Phật Giáo tu tập nhiều năm tại Thái Lan và Myanmar, đã cung cấp cho chúng ta một kiến giải thú vị dựa trên các trải nghiệm của ông bên cạnh những kẻ gần đất xa trời trong các bệnh viện. Ông chỉ trích mạnh mẽ thái độ, chủ yếu của người phương Tây, khi quá tôn sùng sự sống và khiếp hãi cái chết, xem đó là một sức mạnh hủy diệt, cướp đi những gì tốt đẹp nhất. Khi sợ hãi cái chết, chúng ta tự đóng lại cánh cửa dẫn đến những trải nghiệm mới mẻ gắn liền cuộc sống và cái chết. Từ lâu tâm thức phương Đông, được nuôi dưỡng chính trong Ấn Giáo, Phật Giáo, Nho Giáo, và Đạo Giáo, luôn giữ một thái độ bình thản, an nhiên tự tại trước cái chết. Người phương Tây, dưới ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo, xem cuộc sống là duy nhất, hoàn toàn tách biệt khỏi bóng tối của Tử Thần. Đức Giê-su Ki Tô được tôn vinh vì Ngài đã chiến thắng chúa tể của cõi âm. Trong tư duy của phần lớn tôn giáo Châu Á, cả “chết” và “sống” chỉ là hai mặt của cùng một thực tại sinh động luôn luôn lưu chuyển. “Khởi đầu” hay “kết thúc” chỉ có giá trị tương đối. Thái độ quan trọng nhất của tâm thức là thái độ buông xả. Chỉ cần chữ “xả” trong bốn chữ “từ, bi, hỉ, xả,” cũng đủ để tóm tắt tinh thần cốt yếu của Phật Giáo. “Xả” (trong tiếng Phạn là upeksha) tiếng Anh được dịch rất chính xác là “equanimity” (bình thản, an nhiên), diễn tả một thái độ cởi mở trước mọi hình thức của “thực tại,” không hề bị vướng mắc trong sân hận, tham lam, hay phiền não khi “thực tế” đổi thay. Cái chết cũng là một trong những “gương mặt” của “thực tại” nhân sinh mà chúng ta cần nhìn nhận trong mối quan hệ bất khả phân ly với cuộc sống hiện tiền. Chết không phải là sự kết thúc tối hậu. Rất có thể đó là một khởi đầu cho những trải nghiệm chưa hề được biết đến. Nhưng đó không phải là thông điệp quan trọng nhất mà Rodney Smith muốn gửi đến cho người đọc. Một người có niềm tin tôn giáo vững vàng (một Phật Tử hay một tín đồ Thiên Chúa Giáo, hay một tín hữu tôn sùng đấng Allah) thì không hề bị ám ảnh về cái chết. Người không có niềm tin tôn giáo (như hầu hết các nhà khoa học) thì xem chết là hết, là kết thúc một quá trình sinh học tự nhiên. Nhưng cả hai nhóm người này không hề xem việc suy ngẫm về ý nghĩa của cái chết chính là cánh cửa mở vào một cuộc sống thực sự viên mãn hơn. Sống, tồn tại, đối với nhiều người là lo âu, phiền não, nuối tiếc. Lo âu về tương lai bấp bênh nên phải thu gom, tích trữ của cải thật nhiều. Tham lam tận hưởng và săn tìm những thú vui vật chất càng nhiều càng tốt vì cho rằng chết là hết, không còn gì. Và như thế tất yếu sẽ dẫn đến phiền não vì với lòng tham dục vô bờ có lúc nào mà chúng ta thỏa mãn đâu? Lúc nằm trên giường bệnh chờ Tử Thần đến rước đi về cõi miền xa lạ con người lại nuối tiếc vì vô số buồn đau lỗi lầm trong quá khứ. Giá mà chúng ta có thể trở lại? Giá mà chúng ta đừng quá say mê kiếm tiền đến mức quên lãng cả gia đình? Giá mà chúng ta ý thức được những giá trị chân thực trong cuộc sống sớm hơn? Theo Rodney Smith, chính cái chết là bậc thầy vĩ đại giúp chúng ta thực sự sống tốt hơn. Đa số chúng ta không bao giờ nghiền ngẫm về điều này cho đến khi quá muộn. Tập sách là một thiên khảo luận triết lý về cái chết và sự sống. Nó thực sự cần thiết cho những ai bôn ba trong đời muốn dừng lại và suy ngẫm về giá trị của cuộc tồn sinh. Như lời Đức Phật trả lời tên sát nhân Angulimala đang đuổi theo Ngài khi tên này kêu lên: “Hỡi sa môn kia, hãy dừng lại!”: “Ta đã dừng lại rồi. Chỉ có ngươi là chưa dừng lại!” Đôi khi chúng ta cần phải dừng lại trong dòng đời để tự đặt cho mình câu hỏi: “Chúng ta đang đi về đâu? Dừng lại được chưa?” TS. Dương Ngọc Dũng - Giám đốc Điều hành Thư Hiên Dịch Trường
  • NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ: TIỀN ĐỀ CỦA NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC
    04/ 04/ 2022
      Nếu chúng ta có cơ hội theo dõi các tác phẩm triết học lịch sử hiện đại của các tác giả nổi tiếng như Hayden White, Robert F. Berkhofer, Barbara Tuchman, David McCullough, Louis Mink, Fredrich Jameson, Herbert J. Mueller, Paul Ricoeur, W.H. Walsh, Lucas M. Gisi, đa số chưa hề được giới thiệu hay thảo luận trong học giới Việt Nam, chúng ta thường thấy các tác giả nói trên nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa văn học và sử học. Các tác phẩm sử học, theo quan điểm của họ, thường sử dụng, mà không ý thức, các công cụ trần thuật trong văn học khi trình bày các diễn biến lịch sử. Ta thấy rất rõ điều này khi đọc Tư Mã Thiên, Gibbon, Michelet, Taine, Spengler, Toynbee, Durant. Nếu gọi tác phẩm của họ là các kiệt tác văn học thì cũng không xa sự thật bao nhiêu. Bản thân Arnold J. Toynbee, một sử gia Anh kiệt xuất, cũng viết: “Sự chọn lọc và sắp xếp các yếu tố thực tế đơn thuần là một phương pháp hư cấu, và quan điểm phổ biến cho rằng không một sử gia nào có thể được xem là vĩ đại nếu bản thân ông ta không phải là một nghệ sĩ vĩ đại.” (Nghiên cứu về lịch sử nhân loại, NXB. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2008, tr.55). Toynbee & Nghiên cứu về lịch sử Arnold J. Toynbee (1889-1975) là tác giả của bộ sách vĩ đại Nghiên cứu về lịch sử (A Study of History) gồm có 12 tập. Nếu so sánh ông với Will Durant, một sử gia người Mỹ nổi tiếng không kém và rất được ưa chuộng tại Việt Nam, chúng ta thấy ngay sự khác biệt. Will Durant có một văn phong bình dân, giản dị, đôi khi hóm hỉnh, đọc rất hấp dẫn không thua kém gì đọc tiểu thuyết (chả thế mà cố học giả Nguyễn Hiến Lê bỏ công dịch khá nhiều tác phẩm của ông, và gần đây có dịch giả Bùi Xuân Linh cũng thế), nhưng Toynbee thâm trầm hơn. Văn phong ông có nét bác học, chững chạc, quen thuộc với giới sử gia truyền thống, mặc dù không hề “khô như ngói” (dry as dust) như nhiều người nhận xét. Hơn nữa, ông viết sử để minh họa cho triết học về lịch sử của mình, do đó nếu có xem ông là một triết gia thì cũng chẳng xa sự thật bao nhiêu. Điều đầu tiên đáng ghi nhận nhất trong công trình sử học khổng lồ của Toynbee là ông nhấn mạnh việc nghiên cứu lịch sử, nếu chỉ hạn chế trong đơn vị quốc gia, thì thiếu đi tính toàn diện cần thiết để thấu hiểu bản chất vận động của lịch sử. Đặc biệt là khi tìm hiểu lịch sử Châu Âu. Luận điểm thứ hai của Toynbee, được nhiều người biết đến hơn, là luận điểm “thách đố và đáp ứng” (challenge and response). Luận đề này khá đơn giản: một xã hội bất kỳ nào đó luôn luôn phải đối mặt với một loại thách đố nào đó, nếu vượt qua được, nghĩa là có được một “đáp ứng/ giải quyết” phù hợp thì mới có cơ hội tiếp tục vươn lên và phát triển. Đây chính là một loại tiến hóa luận theo mô hình Darwin được áp dụng vào lãnh vực triết học lịch sử. Có lẽ không phải là việc ngẫu nhiên khi hầu hết những người chủ trương tiến hóa luận đều là đồng hương của Toynbee: Thomas Huxley, Charles Darwin, Herbert Spencer, và gần đây nhất là Richard Dawkins.  Do nhận thấy bộ sách 12 tập của Toynbee quá đồ sộ nên khó nuốt với phần lớn độc giả, D.C. Somervell đã bỏ công sức tóm gọn lại bộ sử này thành 2 tập và Công ty Văn Hóa Văn Lang đã cho ra đời bản dịch của tập 1 (riêng phần này không đã chiếm đến 703 trang sách khổ lớn). Đây là một kỳ công đáng ca ngợi vì mấy ai trong thời đại tất bật hiện nay lại chịu khó bỏ thời gian đọc sách lịch sử, nhất là lịch sử Châu Âu, nhưng theo tôi, cùng chia sẻ quan điểm với Toynbee, cho rằng để hiểu được vận động lịch sử của Việt Nam không thể không tính đến vai trò của lịch sử Châu Âu, trong đó có lịch sử của Anh, Pháp, Mỹ có quan hệ trực tiếp đến sử mệnh của dân tộc.  Một sinh viên trong một cuộc tọa đàm về sử luận Đông Tây có nêu câu hỏi: “Vậy giá trị giáo dục của sử học là gì? Và chân lí lịch sử là gì?” Trước hết, bàn về giáo dục, tôi xin mượn lời John Dewey, một triết gia Mỹ: “Giáo dục không chỉ giữ cho một cá thể khỏi bị gieo vào đầu óc những thiên hướng sai lầm tai hại, thói suy nghĩ hồ đồ, ngạo mạn, và sư ưu ái đối với điều gì hợp tư lợi hơn là về phía những bằng chứng khách quan, mà còn làm xói mòn và phá hủy những thành kiến tích tụ và kéo dài dai dẳng” (Cách ta nghĩ. NXB. Tri Thức, Hà Nội, 2013, tr.47). Nếu sử học giúp chúng ta thực hiện được hai điều này - suy nghĩ dựa trên các dữ liệu khách quan và triệt tiêu các thành kiến tai hại - thì sử học, cũng như tất cả các môn học nhân văn khác, có giá trị giáo dục rất lớn. Còn về cái gọi là “chân lí lịch sử” tôi đề nghị chúng ta nên giữ một thái độ hòai nghi lành mạnh - một thái độ không những cần thiết cho triết gia mà cho cả các sử gia. Ngay chính Toynbee cũng thừa nhận thẳng thắn rằng giữa sử học và văn học cũng có nhiều mạch ngầm tương quan mật thiết chứ không hẳn là hoàn toàn đối lập nhau. John Dewey TS. Dương Ngọc Dũng - Giám đốc Điều hành Thư Hiên Dịch Trường
  • HỌC TRIẾT NHƯ THẾ NÀO? - TS. DƯƠNG NGỌC DŨNG
    05/ 04/ 2022
    Nhiều sinh viên hâm mộ triết học thường hỏi tôi những câu sau đây: 1-Học triết nên bắt đầu từ đâu? 2-Học triết theo phương pháp nào? 3-Học triết có cần một năng khiếu đặc biệt gì không? 4-Nên tập trung vào những triết gia nào? Bài viết này sẽ tập trung vào việc giải đáp các câu hỏi trên. Dĩ nhiên ngay cả hành nghề xoa bóp hay nấu ăn cũng cần phải có năng khiếu. Vì không phải tự nhiên ai cũng có khả năng làm thiên hạ thư giãn thể xác hay chế biến ra những món ăn hấp dẫn. Nhưng nếu cho rằng triết học chỉ dành cho những bậc trí tuệ thiên tài, những người có năng khiếu đặc biệt, thì cũng sai lầm. Càng lầm lẫn hơn khi đồng hóa các triết gia với những người gàn dở, lập dị, lúc nào cũng thích nói những câu ngông cuồng, quái đản, không ai hiểu được. Đức Phật, Khổng Tử, hay Jesus đều nói năng hết sức giản dị mặc dù từ ba vĩ nhân này đã sản sinh ra ba truyền thống triết lý và thần học vĩ đại. Nāgārjuna (Long Thọ 龍樹) và Asanga (Vô Trước 無著), hai bậc tông sư của truyền thống Trung Quán và Duy Thức trong triết học Đại Thừa Phật giáo , cũng chỉ xây dựng hệ thống triết học vĩ đại của mình dựa trên những câu nói giản dị của Đức Phật. Dĩ nhiên văn phong triết học của những triết gia Tây phương không dễ hiểu và đôi khi thật tối tăm, nhưng nguyên nhân chính vẫn là vấn đề ngôn ngữ và văn hóa. Chẳng hạn ngôn ngữ và truyền thống văn hóa Đức đã sản sinh ra triết học Kant, Hegel, Habermas, Gadamer, Husserl. Chính ngôn ngữ và văn tự Trung Hoa đã tạo ra và khuôn định truyền thống tư tưởng Trung Quốc, cũng như tiếng Hy Lạp đã chi phối toàn bộ sự vận hành của triết học phương Tây. Còn chúng ta sống trong truyền thống văn hóa Việt Nam mà lại cố gắng nói năng giống như Hegel thì chỉ là làm dáng hay đóng kịch triết học mà thôi. Cũng như truyền thống văn hóa Mỹ đã sản sinh ra những triết gia lớn như William James, John Dewey, Charles Peirce, và hiện nay Hilary Putnam, nhưng họ viết bằng một văn phong khác hẳn với văn phong của các triết gia Đức, giản dị hơn, gần với ngôn ngữ đời thường hơn, và hầu như không bao giờ ẩn nấp sau những đám mây mù siêu hình học như các đồng nghiệp ở Đức.  Như vậy, học triết học cần những năng khiếu gì? Tôi xin đưa ra bảng nhận xét sau đây để các bạn trẻ tự đánh giá. Nếu các bạn thấy mình đều trả lời “không” cho các câu hỏi sau đây thì cứ nên vui vẻ “thu dọn đời mình” mà học môn khác cho đỡ tốn thì giờ, phí năng lực: 1-Nhật xét căn bản nhất về các triết gia là họ rất thích đọc sách, không hẳn là sách triết, cũng không phải sách chuyên môn về toán hay vật lý. Thái độ chung của triết gia là ham tìm hiểu nhưng không khoái chuyện thực hành (chẳng hạn mổ xẻ trong phòng thí nghiệm) nên chuyển mọi năng lực của họ vào việc đọc sách, đọc tất tần tật mọi thứ trên đời, từ Kinh Thánh cho đến thuyết tương đối của Einstein. Nói chung là họ tò mò về mọi thứ. Ken Wilber là trường hợp điển hình. Karl Popper thì nghiên cứu từ vật lý, chính trị, cho đến sử học. Nếu ngay từ lúc còn nhỏ bạn không thích đọc sách (sách nói chung: tiểu thuyết, văn chương, thơ ca, nghệ thuật, tôn giáo v.v…) và đến bây giờ sách vẫn là liều thuốc ngủ tốt nhất của bạn thì nên vui vẻ giã từ triết học vì bạn sẽ không bao giờ đọc xong nổi một trang sách triết thứ thiệt. Và đây cũng là tiêu chuẩn hàng đầu để nhận diện các triết gia “dỏm”: họ chẳng bao giờ đọc sách hay chỉ giả vờ mua sách về chất đầy trong tủ. Ham mê đọc sách là điều kiện tiên quyết của việc học triết.  2 - Đặc tính thứ hai của triết gia là thích tranh luận, phân tích và hay giảng giải. Do lúc nào nào cũng đọc sách và suy tư nên sự hiểu biết và óc phán đoán của triết gia đương nhiên phải nhạy bén, sâu sắc, và linh hoạt hơn những người không bao giờ quan tâm đến sách vở. Nhưng cũng cần thận trọng phân biệt: triết gia thích phân tích, tranh luận, giải thích, không có nghĩa là họ chỉ khéo léo trưng bày các tên tuổi triết học nổi tiếng mà không bao giờ đưa ra ý kiến của mình. Chẳng hạn nhiều người mở miệng ra là dẫn Derrida, Foucault, Sartre, Merleau-Ponty, Husserl, toàn những tên tuổi làm người nghe khiếp đảm, nhưng thật ra chính họ cũng chẳng biết mấy triết gia nổi tiếng kia nói gì hay cũng chỉ hiểu một cách mơ màng. Triết gia không thích “triển lãm hàng hóa,” nhưng ông thích biện luận, giảng giải về mọi vấn đề, và thông thường ông không chấp nhận các ý kiến sẵn có, mà luôn có một thái độ hoài nghi, châm biếm nhẹ nhàng trước những khẳng định “chắc như đinh đóng cột” của bất kỳ ai đó. Nếu các bạn thấy mình không có ý kiến gì cả: lúc nhỏ thì hỏi cha mẹ, lúc đi học thì hỏi bạn bè, lúc lấy chồng (hay vợ) chỉ biết hỏi chồng (hay vợ), chồng (hay vợ) chết thì hỏi con, đi làm thì hết sức ngoan ngoãn sợ sếp như cha, nói chuyện với bạn bè thì hết sức “kính trên nhường dưới”, ai nói gì cũng cho là phải, nếu các bạn thấy mình như thế thì không nên học triết vì học triết chỉ khiến bạn đâm rối loạn hết mọi sự và quả thật giả sử bạn có hiểu được triết học là gì đi nữa thì nó cũng chẳng giúp ích được gì cho cuộc sống vốn quá bằng phẳng của bạn. Về một phương diện nào đó, triết gia là một người thực sự có lòng can đảm, theo nghĩa ông ta đủ sự dũng cảm và sự lương thiện trí thức để phản đối những quan điểm mà ông cho rằng chúng sai trái hay nguy hiểm. Socrates là hình mẫu của một triết gia đích thực.   3 -Triết học quả thật chỉ dành cho những người thích suy tư, thiên về cuộc sống trí tuệ, nội tâm, nhàn tản, thích ngồi đọc sách hay thích đàm đạo với các bạn thân, nên nếu bạn là mẫu người quá sung sức, thích hoạt động ngoài trời, thích thể thao, thì rõ ràng cũng không có năng khiếu học triết. Lịch sử triết học Hy Lạp cho biết rằng Platon là một động viên điền kinh hoàn mỹ. Nhưng đó là ngoại lệ: chúng ta không phải là Platon thì không nên bắt chước để cầu được “văn võ song toàn” vì nếu cố gắng quá chúng ta chỉ có khả năng trở thành “văn dốt vũ dát,” một thứ “triết gia ba rọi” không giống con giáp nào.  4-Triết học có liên quan sâu xa đến vấn đề ngôn ngữ nên nếu không có một quan tâm thực sự cụ thể và nghiêm túc đến việc học ngoại ngữ thì cũng không nên học triết làm gì. Ngay cả những cuốn sách viết bằng tiếng Việt để trình bày triết học phương Tây cho sinh viên ban triết (của các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Thành Trị, Kim Định, Nguyễn Văn Trung các giáo sư triết ở Văn Khoa trước năm 75) cũng không thể hiểu nổi nếu người đọc không có kiến thức căn bản về Pháp văn (hay Hán văn trong trường hợp đọc sách của Kim Định) vì các tác giả trình bày đều dựa vào nguồn tư liệu tiếng Pháp và đa số đều dịch được từ các nguồn tư liệu này sang tiếng Việt. Học triết Trung Quốc thì đỡ khổ hơn vì các thuật ngữ phổ biến như Đạo, Lý, Khí, Tâm, Nhân, Nghĩa, Chính, Danh, v.v.. đều đã được Việt  hóa từ lâu nên giai đoạn đầu không nhất thiết phải biết chữ Hán. Triết học Ấn Độ sở dĩ không phát triển nổi trong văn hóa Việt Nam chính do trở ngại chính là tiếng Phạn và phong cách tư duy quá xa lạ của các triết gia Ấn, tập trung bàn chuyện Thực Thể Tuyệt Đối (Brahman) chứ ít khi ngó ngàng đến chuyện con người, xã hội, chính trị, trong khi đây lại là những mối quan tâm chính trong tư tưởng Trung Hoa và Việt Nam. Đại khái các tiêu chuẩn học triết chỉ cần có thế. Với một sự thông minh trên mức trung bình, và một sự kiên nhẫn học ngoại ngữ liên quan, không cần phải là thiên tài, bất cứ ai cũng có thể trở thành triết gia. Mạnh Tử và Tuân Tử trong truyền thống Nho giáo còn khẳng định bất cứ ai cũng có thể trở thành thánh nhân. Các thiền sư Trung Hoa đều khẳng định ai cũng có khả năng trở thành Phật. Sự khó khăn bắt đầu ở chỗ khi bắt đầu công việc học triết chúng ta phải học như thế nào vì triết học bản thân nó có hệ thống (system) và truyền thống (tradition), chúng ta không thể nhào đại vào bất cứ một cuốn sách triết nào đó, chẳng hạn tác phẩm Hữu thể và thời gian (Sein und Zeit) của Heidegger (nhất là đọc bản dịch của Trần Công Tiến), để rồi thất vọng ê chề phải nhảy ngược trở ra, mang theo một lòng thù ghét triết học vô tận. Các sinh viên học triết đều công nhận rằng khó khăn ban đầu lớn nhất là vấn đề thuật ngữ chuyên môn. Chính các thuật ngữ chuyên môn này đều xuất phát từ các bản dịch hết sức phiến diện và thiếu sót các khái niệm trong tiếng Anh, Pháp, hay Đức, nên càng làm tăng thêm sự rối rắm. Chẳng hạn chữ “being” trong tiếng Anh (être trong tiếng Pháp hay sein trong tiếng Đức) được dịch sang tiếng Việt là “hữu thể” hay “tính thể.” Đố ai biết được “hữu thể” là cái gì, nhưng nếu biết ngoại ngữ thì khó khăn sẽ giảm đi một nửa. Chúng ta sẽ lờ mờ đoán ra rằng “being” hay “être” có liên quan đến những câu trong đó hai thuật ngữ này được sử dụng như động từ: I am a student (Tôi “là” một học sinh) hay Je suis un homme (Tôi “là” một người đàn ông). Như thế “being” hay “être” dùng để chỉ trạng thái “là,” trạng thái “hiện hữu,” trạng thái “tồn tại.” Tôi “là” một học sinh, có nghĩa là tôi “tồn tại” như một học sinh. Triết gia là người nghiên cứu về “sự tồn tại” (beingness= Existenz) này trong mọi khía cạnh của nó.  Như vậy một trong những điều kiện đầu tiên để học triết là phải học ngoại ngữ. Cần ghi chú thêm là hầu hết các triết gia có tên tuổi trong lịch sử triết học đều có năng khiếu ngoại ngữ. Chúng ta có thể giải thích là do triết gia đều là những người thông minh xuất chúng nên việc học giỏi ngoại ngữ đối với họ là chuyện bình thường. Không hẳn như thế. Triết học liên quan đến ngôn ngữ ở một tầng nấc rất sâu, đến mức Heidegger phải cho rằng: “Nhiệm vụ sau cùng quan trọng nhất của triết học chính là bảo tồn được sức mạnh của những ngôn ngữ sơ nguyên nhất trong đó Tính Thể tự thể hiện, và giữ cho sự hiểu biết thông thường không san phẳng chúng vào sự hoàn toàn không thể hiểu nổi, mà chính sự thiếu hiểu biết này sau cùng là suối nguồn cho tất cả những vấn đề giả tạo.” (am Ende das Geschäft der Philosiphie, die Kraft der elementasten Worte, in denen sich das Dasein ausspricht, davor zu bewahren, dass sie durch den gemeinen Vestand zur Unverstaendlichkeit nivelliert werden, die ihreseits als Quelle für Scheinproblem fungiert).  Wittgenstein thì viết rằng “Giới hạn thế giới của tôi là giới hạn trong ngôn ngữ của tôi” (The limits of my world is the limits of my language). Khi suy tư chúng ta đều di chuyển trong các phạm trù khái niệm do ngôn ngữ thiết lập, nên sự biện luận của các triết gia đều xoay quanh việc làm rõ ý nghĩa của một số thuật ngữ nào đó (chẳng hạn cách dùng các thì, cách dùng giới từ, tổ hợp cấu trúc ngữ pháp trong câu…) nên có thể khẳng định bước đầu tiên để học triết là học ngôn ngữ thuần túy. Không nhất thiết phải học đúng thứ tiếng trực thuộc một truyền thống triết học cá biệt (chẳng hạn phải học Hán ngữ nếu muốn nghiên cứu triết học phương Đông) vì học ngoại ngữ đây chính là các rèn luyện các kỹ năng phân tích tối cần thiết cho việc học triết chứ không phải để phục vụ cho các mục tiêu khác.  Một sự kiện thông thường khác là do thiếu hiểu biết về ngoại ngữ liên hệ nhiều người đã tranh cãi hay ngộ nhận về một câu phát biểu nào đó. Thí dụ nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo (nói chung cả Công Giáo lẫn Tin Lành) đã tranh cãi về thông điệp quan trọng nhất trong Tân Ước: nước Chúa (regnum dei). Một qua điểm, căn cứ trên Tin Mừng theo thánh Mác cô (1.14), cho rằng nước Chúa đã đến, đã được thiết lập trong hiện tại. Quan điểm thứ hai cho rằng nước Chúa sẽ được thiết lập trong một tương lại rất gần. Nhưng động từ Hi Lạp thánh Mác cô sử dụng êggiken là một động từ diễn tả một hành động khởi sự từ trong quá khứ và đang tiến về tương lai, nghĩa là một sự kiện chưa hoàn tất. Như thế nước Chúa (Hi Hạp: basileia tou theou) đang đến gần và con người có thể đáp ứng với tin mừng (Phúc Âm) đó. Có lẽ vấn đề chính không phải chuyện nước Chúa sẽ đến trong một ngày rất gần đây, mà trọng tâm vấn đề nằm ở thái độ, phản ứng của con người đối với sự xuất hiện của nước Chúa như thế nào: tin tưởng hay chối bỏ, lãnh đạm, v.v.. Động từ êggiken không hề cho thấy rằng nước Chúa đã đến (has arrived) hay đã sát gần kề (to be at hand) như các dịch bản Anh ngữ phổ biến vẫn dịch.  Cũng nhiều học giả cho rằng các tín đồ Thiên Chúa Giáo đầu tiên rửa tội trong nước (dìm trong nước). Nhưng trong Kinh Thánh danh từ Hi Lạp được sử dụng là ơdsti hay ên ơdsti có nghĩa là “bằng nước” (by means of water, with water), chứ không phải “dìm trong nước” (in water).  Xin dẫn thêm một ví dụ khác. METANOIA trong tiếng Hi Lạp μετάνοια, có nghĩa là “một sự chuyển hóa tâm hồn” (a transformative change of heart) hay cụ thể là “sự chuyển hướng về phương diện tâm linh/ tinh thần” (spiritual conversion). Trong tiếng Hi Lạp cổ METANOIA chỉ đơn giản có nghĩa là “thay đổi quan điểm/ ý kiến về một sự việc nào đó.”  Trong Kinh Thánh bản King James, động từ metanoeo/μετανοέω lại được dịch sang tiếng Anh (một cách sai lầm) là “ăn năn/ hối cải/ sám hối= REPENT.” Những bản dịch Tân Ước sang tiếng Anh đều thống nhất dùng từ REPENTANCE (=sám hối/ ăn năn) cho cả hai từ METANOIA và METAMELOMAI. Trong Tin Mừng của thánh Mác-cô Giê Su loan báo Vương Quốc của Thiên Chúa đã đến gần và yêu cầu mọi người hãy sám hối (repentance). METAMELOMAI còn có thêm một ý phụ (connotation) là sự “buồn đau và tiếc nuối” (pain, sorrow, and regret). Trong các cộng đoàn Thiên Chúa Giáo sơ kỳ METANOIA được dùng thống nhất với ý nghĩa là “một sự thay đổi triệt để trong tư duy và hành động,” rất giống với khái niệm CHUYỂN Y trong PHẬT GIÁO DUY THỨC. Vào năm 2006 một nhóm các học giả trong phong trào đại kết công bố một nghiên cứu về sám hối trong Kinh Thánh và Hội Thánh. Nghiên cứu này khẳng định rằng vào thời Giê Su Ki Tô văn hóa Do Thái vẫn cho rằng METANOIA (=mà ngày nay chúng ta dịch là SÁM HỐI/ THỐNG HỐI) thật ra chỉ có ý nghĩa “thay đổi triệt để tư duy và hành động” mà thôi.   Theo học giả David N. Wilkin (trang web Millennium Web Catalog của chủng viện Virginia): “Các Giáo Phụ La tinh đã dịch METANOIA thành PAENITENCIA (=chữ này mới thực sự có nghĩa là SÁM HỐI). Bản thân cha đẻ của thần học phương Tây là Tertullianô đã phản đối cách dịch tiếng Hi Lạp METANOEO sang tiếng La Tinh PAENITENTIAM AGO. Thánh nhân cho rằng "trong tiếng Hi Lạp, METANOIA is KHÔNG PHẢI LÀ SỰ THÚ NHẬN TỘI LỖI MÀ LÀ SỰ THAY ĐỔI TÂM HỒN." Thuật ngữ tiếng Anh "Conversion" (từ gốc La Tinh conversiōn-em=xoay chuyển lại) mới diễn tả đúng ý của chữ METANOIA hơn là REPENTANCE (PAENITENCIA). Như vậy chúng ta thấy một sự giống nhau khá thú vị: METANOIA tiệm cận với āśraya-parivṛtti (=CHUYỂN Y) trong triết học Duy Thức của Phật Giáo. Theo Duy Thức Học, A Lại Da Thức là thức thứ tám, thức cuối cùng, nền tảng cho bảy thức còn lại. Tạm thời hãy hình dung TÀNG THỨC này như một cái bể chứa khổng lồ chứa rất nhiều hạt giống nghiệp phục vụ cho việc tái sinh trong cõi luân hồi. Có rất nhiều hạt giống khác nhau vì đã được tích lũy, huân tập ở đây không biết bao nhiêu đời kiếp, nhưng đại khái gồm 2 loại chính: TỊNH và BẤT TỊNH. Những hạt giống TỊNH (TỐT ĐẸP) khi đúng thời điểm sẽ nảy sinh thành những QUẢ tốt đẹp cho người thụ hưởng, còn những hạt giống XẤU (BẤT TỊNH) đương nhiên sẽ tạo nhân cho các ác quả ngay trong kiếp này hay trong một kiếp lai sinh. CHUYỂN Y chính là dò tìm đến tận TÀNG THỨC này để chỉnh sửa tận gốc: LOẠI BỎ NHỮNG HẠT GIỐNG XẤU RA KHỎI TÂM THỨC, giống như cài đặt một phần mềm chống virus cực mạnh vào máy tính vậy, phục hồi chức năng vận hành hiệu quả của máy. Cách phát biểu đầy hoa mỹ của các thiền sư Mỹ là “quay nguồn sáng vào trong tâm để tự soi sáng chính mình” (turn the light around and shine it on yourselves). SAU KHI ĐÃ SOI SÁNG HẾT NHỮNG GÓC TỐI TRONG TÂM THỨC DO VÔ MINH TẠO NÊN, HÀNH GIẢ HIỂU RẰNG MỌI HIỆN TƯỢNG GÂY RA PHIỀN NÃO TRONG CUỘC SỐNG CHỈ LÀ DO CHUYỂN BIẾN CỦA TÀNG THỨC KHI PHẢN ỨNG VỚI NGOẠI CẢNH MÀ THÔI. Công phu chính để chuyển y chính là THIỀN QUÁN và thực hành các nguyên tắc giới luật Phật trong đời sống hàng ngày. Thông qua việc thực hành thiền định TÂM (THỨC) sẽ trải qua một quá trình sàng lọc, tẩy rửa, loại bỏ tất cả những hạt giống bất tịnh được lưu trữ trong tàng thức từ muôn vạn kiếp. Nếu chọn tu theo pháp môn Tịnh Độ, thông qua việc niệm hồng danh phật A Di Đà và quán tưởng những hảo tướng của Đức Phật, hành giả cũng có thể đạt đến mục tiêu này SAU KHI được vãng sinh vào Tịnh Độ. Việc nắm vững ngoại ngữ do đó không thể thiếu trong khi nghiên cứu các văn bản cổ. Chẳng hạn các vị giáo sư dạy triết Trung Quốc hay những học giả viết sách về tư tưởng Trung Quốc thường khởi sự ngay với tư tưởng Khổng Tử và Nho Giáo. Đôi khi họ khởi sự với thời Hạ Thương, Chu và phân tích những tác phẩm tiền Nho Giáo như Kinh Thi, Kinh Thư, Tả Truyện, cho đó thuộc về sử liệu hơn là các văn bản triết học. Chính vì thế họ không biết rằng chữ nhân 仁 dùng trong Kinh Thi không có nghĩa “nhân ái” như trong tư tưởng Khổng giáo về sau mà thực ra dùng để chỉ vẻ đẹp ngoại hình của nam nhi và thậm chí còn dùng để mô tả các nhân vật chẳng đạo đức nhân ái một chút nào cả [Xem Takeeuchi Teruo, “A Study of the Meaning of Jen Advocated by Confucius,” Acta Asiatica 9 (1965), 57- 77).  Đọc Tả Truyện chúng ta thấy rằng chữ dùng để chỉ sự săn bắn liệp 獵 đồng thời cũng dùng để chỉ sự tấn công của một đạo quân. Như thế trong nhãn quan thời Xuân Thu Chiến Quốc, săn bắn là một hình thức của chiến tranh và ngược lại.  Nói chung, ý thức sâu sắc về vấn đề ngôn ngữ chính là cửa ngõ đầu tiên dẫn đến triết học. Thiếu hiểu biết về ngôn ngữ trong đó tư tưởng tự thể hiện, chúng ta chỉ dừng lại ở mức sao chép, lặp lại những ý kiến công ước đã được chế tạo sẵn trong sách giáo khoa mà thôi.  Thậm chí tôi dám quả quyết rằng đọc mười cuốn sách viết về tư tưởng chính trị Nho giáo không bổ ích bằng bỏ một giờ học Hán ngữ để thấy rằng chữ “chính” 政  là trong “chính trị” liên quan mật thiết đến “chính” 正= ngay thẳng để chỉ đạo đức cá nhân. Người làm chính trị phải có đạo đức cá nhân, đó là điều quá hiển nhiên trong bối cảnh văn minh Đông Á, nhưng lại không hiển nhiên chút nào trong lịch sử chính trị học Tây phương.  Sau khi trình độ ngoại ngữ tương đối tạm ổn chúng ta sẽ bắt đầu công việc học triết một cách có hệ thống bằng cách kiếm một cuốn sách lọai “nhập môn triết học” (introduction to philosophy) loại dễ nhất để đọc. Theo kinh nghiệm bản thân, sách loại này các tác giả Mỹ viết là tốt nhất: trình bày gọn gàng, có thứ tự, hệ thống, và nhất là sáng sủa, dễ hiểu. Ngay cả khi mục tiêu lâu dài của bạn là nghiên cứu triết học Trung Hoa hay Ấn Độ các bạn cũng nên bắt đầu bằng “nhập môn triết học Tây phương” trước. Việc đó giống như rèn luyện các kỹ năng cần thiết trước khi leo lên những ngọn núi cao hơn. Đừng bao giờ hiểu lầm rằng triết học chỉ dành cho các thiên tài lập dị hay dở hơi, điên điên khùng khùng. Triết học là một môn học nghiêm túc như tất cả các môn học khác và cũng đòi hỏi một sự nghiên cứu có hệ thống, thứ bậc rõ rệt. Không nên quá nóng vội hay chỉ vì muốn theo kịp các thời trang trí thức bằng cách nhồi nhét tác phẩm của Heidegger, Sartre, Husserl, Foucault, Habermas, Gadamer vào đầu một cách vô ích. Học triết mà khởi đầu với các tác giả Đức như Hegel, Heidegger, Husserl thì sẽ tẩu hỏa nhập ma luôn, chẳng bao giờ muốn cầm cuốn sách triết lên lần thứ hai. Cũng không nên bắt đầu ngay với các tác giả Pháp thuộc thế hệ những năm 68 như Foucault, Derrida, Bourdieu (một nhà xã hội Pháp nổi tiếng nhất hiện nay), Lacan, Barthes, Althusser, Lévi-Strauss, vì họ phủ nhận, phê phán, tàn phá tất cả các bậc triết gia đàn anh đi trước, đặc biệt là Derrida, hủy diệt cả truyền thống siêu hình học Tây phương. Nhưng cũng không nên khởi đầu theo thứ tự thời gian theo kiểu mấy cuốn giáo khoa vẫn thường làm vì nếu làm thế chúng ta bắt buộc phải khởi đầu với các triết gia Hi Lạp thời tiền Socrates và sẽ ngán ngẩm khi nhận ra họ cũng chẳng phải là triết gia. Nếu giáo sư là người có nghiên cứu triết học Hi Lạp thì cũng sẽ vô cùng lúng túng khi phải thông báo cho sinh viên biết rằng cần phải biết tiếng Hi Lạp để hiểu được tiếng Hi Lạp, một yêu cầu thật quá xa vời và xa xỉ trong điều kiện hiện  nay.  Nên chọc học triết khởi sự từ những chủ đề mà bản thân người học quan tâm nhất, và điều quan trọng là không nhất thiết phải khởi sự với một tác phẩm triết học. Thí dụ nếu người học thích thú với những vấn đề chính trị, xã hội, thì không gì tốt hơn là đọc Marx trước, sau đó sẽ đến những thế hệ giải thích Marx như Lukács, Lichtheim, Manheim, Althusser, Adorno, Horkheimer, Habermas, v.v..và không nên quên đọc các nhà xã hội học kinh điển như Max Weber, Émile Durkheim, Vilfredo Pareto. Đó là những tác phẩm nhập môn triết học tốt nhất. Đặc biệt là nên nghiền ngẫm quyển Thuốc phiện của giới trí thức (L’Opium des Intellectuels) một kiệt tác của Raymond Aron, một nhà xã hội học kiêm triết gia, trước khi đọc Marx hay Hegel.  Nếu chúng ta quan tâm đến những vấn đề thuộc phạm vi tâm lí, gia đình, cá nhân, thì không còn cách nào tốt hơn là đọc Sigmund Freud, Carl G. Jung, Erich Fromm và Adler (các tác giả này được dịch khá nhiều sang tiếng Việt, nhưng cũng chỉ nên dùng tạm trong lúc đầu thôi. Công cụ học triết chính vẫn là ngoại ngữ). Tuy không phải là một triết gia chuyên nghiệp nhưng Sigmund Freud vẫn tạo ra một dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tư tưởng thế giới, đặc biệt là quan niệm của ông về Vô Thức. Herbert Marcuse, một triết gia Đức di cư sang Mỹ giảng dạy, đã viết một tác phẩm rất hay về tư tưởng của Freud, Dục tính và văn minh (Eros and Civilization, đã được Hoàng Thiên Nguyễn (tức Như Hạnh) dịch sang tiếng Việt từ trước 1975).  Nếu bạn quan tâm đến những vấn đề siêu hình và tôn giáo thì không nên khởi sự với Marx, tác giả của câu nói lừng danh “tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng” (Die Religion ist das Opium des Volkes) cũng không nên khởi sự với Freud, người cho tôn giáo là một ảo tưởng ấu trĩ, một thứ bệnh tâm thần, mà nên khởi sự với Teilhard de Chardin (nếu bạn là người Công giáo), với Paul Tillich (nếu bạn là người Tin Lành) và với Nishida Kitarō (nếu bạn theo Phật giáo). Nishida Kitarō (西田 幾多郎) là triết gia vĩ đại nhất của Nhật Bản luôn luôn viết trong sự đối thoại với tư tưởng Tây phương dựa trên kinh nghiệm Thiền học Phật giáo. Chính ông là thủ lĩnh của trường phái triết học Kyoto lừng danh và là tác giả của Nghiên cứu về cái thiện (善の研究, Zen no kenkyū).  Nói chung để có một cái nhìn tổng quan về triết học Tây phương, chúng ta nên bắt đầu với ba người: Marx, Nietzsche, và Freud. Marx không phải dễ đọc, nhưng ông bàn ngay vào những vấn đề xã hội cụ thể, và hiểu được ông thì cũng như cầm chắc được phân nửa triết học phương Tây trong tay, vì hầu hết lịch sử triết học hiện đại Đức (từ Horkheimer, Adorno, Marcuse, cho đến Habermas) chỉ là những nỗ lực đối thoại với Marx, phủ nhận ông, phê phán hay mở rộng một số quan niệm triết học căn bản của Marx.  Kế đến là Nietzsche. Triết gia này viết triết học không hề giống với bất kì triết gia nào: không có hệ thống phân tích lôi thôi dài dòng gì cả mà chỉ có những đoạn văn ngắn, rất mạnh mẽ, rất linh động, chẳng hạn “tình yêu là một cơn điên ngắn ngủi và hôn nhân là một sự ngu xuẩn dài hạn”. Một trong những tác phẩm chính của Neitzsche đã được Trần Xuân Kiêm dịch sang Việt ngữ, Zarathustra Đã Nói Như Thế (Also sprach Zarathustra) là một dẫn dụ rất tốt vào con đường suy tư triết học nhưng nó đồng thời cũng có thể là một thứ kháng sinh quá mạnh sẽ tận diệt mọi “tế bào triết học” trong cơ thể bạn. Nietzsche là người nổi tiếng với câu “Thượng Đế đã chết” (Gott ist tot). Chúng ta không chắc là “Thượng Đế” theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng có thực sự chết hay không, nhưng những kẻ ghét Nietzsche có thể khẳng định “Nietzsche đã chết” mà không sợ phạm sai lầm. Đọc Nietzsche, do đó, là một kinh nghiệm thú vị nhưng cũng có thể là kinh nghiệm cuối cùng đối với triết học.  Freud là một bác sĩ y khoa. Tên tuổi ông gắn liền với học thuyết phân tâm học (psychoanalysis). Ông trình bày vấn đề sáng sủa và giản dị như một nhà khoa học có năng khiếu viết văn. Chỉ cần đọc đi đọc lại tác phẩm của Freud, đặc biệt là Văn minh và Những Bất Mãn của nó (Civilization and Its Discontents), chúng ta cũng sở đắc được những tri thức sâu sắc về con người, quan hệ giữa người và người, quan hệ xã hội, lịch sử văn minh. Tư tưởng của Freud có thể giúp con người thanh lọc bớt rất nhiều các ảo tưởng đầy rẫy trong cuộc sống hàng ngày bằng cách tạo cho người đọc cơ hội tự phản tỉnh, suy nghĩ về chính bản thân, một quá trình đầy hứng khởi mà Nho giáo gọi là “cải quá tự tân” (sửa đổi lỗi lầm, làm mới bản thân). Nhưng tin rằng phân tâm học là một khoa học dẫn bạn vào những chân lý vĩnh cửu trong tâm hồn con người thì lại là sai lầm lớn. Việc bài bác tôn giáo trong quan niệm Freud là một ví dụ. Chính Jung và Otto Frank, cũng như Erich Fromm, Karen Horney, Sullivan sau này đã mạnh mẽ vạch ra nhiều thiếu sót trong học thuyết của Freud. Nhưng nên xem Freud là một triết gia hơn là một khoa học gia. Khoa học gia cần phải chính xác trong từng chi tiết cụ thể. Triết gia cung cấp những cái nhìn lớn, một thứ ánh sáng thật mạnh để soi sáng cuộc sống nhân sinh trong toàn thể tính của nó. Ông không có nhiệm vụ tìm ra những giải pháp cụ thể cho những vấn đề cụ thể nên không cần phải quá chính xác trong những chi tiết. Về việc đọc ba triết gia hàng đầu này nên đọc bằng tiếng Anh hơn là đọc các bản dịch tiếng Việt. Dĩ nhiên cả ba đều viết bằng tiếng Đức nhưng việc tìm ra các nguyên tác Đức ngữ của các tác giả trên đây không phải dễ trên thị trường sách vở hiện nay, trừ khi người học “chơi sang” đặt mua thẳng từ bên Đức với một giá rất mắc không thể tưởng tượng nổi. Chẳng hạn một cuốn sách triết loại bỏ túi (dày 300 trang) thông thường của Nhà Xuất Bản Suhrkamp ít nhất là ba chục mác (tương đương 30 đô la Mỹ). Trọn bộ ba tác phẩm của Nietzsche (khoảng 7 cuốn) hàng năm được tái bản với giá 500 mác, chỉ chuyên gia nghiên cứu về Nietzsche may ra mới chịu bỏ tiền ra mua. Trong khi sách dịch tiếng Anh hay tiếng Pháp thì tràn ngập với giá rẻ mạt (ý tôi muốn nói là sách cũ) và cũng tương đối dễ kiếm tại Sài Gòn. Một phân ngành khác của triết học gần đây cũng được rất nhiều người quan tâm và nó gắn liền với tên tuổi của triết gia kiêm giáo sư đại học Harvard Michael Sandel: đó là triết học cộng đồng (public philosophy). Môn học này có ưu điểm là không hề trừu tượng một chút nào mà tập trung vào những vấn đề xã hội cụ thể. Triết học cộng đồng có thể giúp nâng cao ý thức về những vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong cộng đồng (địa phương hay toàn cầu) và giúp chúng ta áp dụng những kiến thức triết học đã học vào việc phân tích, đánh giá, và xử lý những vấn đề xã hội thiết thực (trẻ vị thành niên phá thai, quan hệ tình dục trong giới sinh viên, rối loạn giao thông công cộng, nạn tham nhũng, mại dâm, mua bán nội tạng, đẻ thuê…v…v…). Mục tiêu của môn học này nhằm chứng minh rằng triết học không hề giới hạn trong các vấn đề trừu tượng như siêu hình học hay bản thể học mà thực ra có thể có sức ứng dụng rất cao. Triết học cộng đồng rất thực tế theo nghĩa nó giúp chúng ta đào sâu vào tận nền tảng những vấn đề thoạt nhìn hết sức bình thường nhưng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày như: • Tại sao chúng ta phải đóng thuế? • Tình yêu là gì?  • Tình dục là gì? • Tại sao cần phải nâng cao kỹ năng giao tiếp? • Tiền là cái gì? • Hạnh phúc là gì? Phải chăng “đời là bể khổ?” Thiên đường có thật hay không? • Tại sao phải có chính phủ? • Thế nào là tự do?  • Tại sao không thể hợp pháp hóa mãi dâm? • Hôn nhân có thực sự cần thiết? • Có phải tôn giáo là nguồn gốc của bạo lực xã hội? • Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội cái nào tốt hơn? • Có cần bãi bỏ án tử hình? Tại sao cần phải tử hình?  • Có nên cho phép đẻ thuê? Dựa trên cơ sở triết học nào? • Tại sao lại cấm đoán việc sinh sản vô tính (cloning)? • Nên xử lý trường hợp “sống thực vật” như thế nào? • Có cách gì để giảm bớt hay kết thúc tình trạng giao thông bát nháo hiện nay? Nguyên nhân từ đâu?  Chúng tôi xin đề nghị một danh sách tài liệu sau đây để người học tham khảo nếu muốn đào sâu thêm về triết học cộng đồng và đúng theo tinh thần “cộng đồng” chúng ta nên thành lập một nhóm các bạn “đồng chí” để cùng nhau phân tích và thảo luận. 1-“What is the Public Philosophy?” của James W. Caeser (trong cuốn Public Philosophy and Political Science do E. Robert Statham chủ biên, 2002, NXB. Lexington Books). Chủ đề: xác định nội hàm ý nghĩa “triết học cộng đồng.” 2-“Tiền không mua được gì? (What money can’t buy) của Michael Sandel (đã có bản dịch tiếng Việt). Chủ đề: Tiền, hạnh phúc, và công bằng xã hội. 3-Justice: What’s the Right Thing to Do? của M. Sandel (có bản dịch tiếng Việt). Chủ đề: thế nào là công bằng xã hội?  4-Freakeconomics (bản dịch tiếng Việt: Kinh tế học hài hước) của Stephen Levitt. Chủ đề: vai trò của kinh tế học trong việc giải mã hành vi con người.  5-Làn sóng thứ ba (The Third Wave) và Chuyển đổi quyền lực (Power Shift) của Alvin Toffler. Chủ đề: quan hệ giữa tri thức, công nghệ, và quyền lực. 6-Public Philosophy: Essays on Morality in Politics của M. Sandel. Chủ đề: quan hệ giữa đạo đức và chính trị. 7-Public Philosophy in a New Key của James Tully (cuốn 1, NXB. Cambridge University Press, 2008). Chủ đề: chế độ dân chủ và tự do dân sự.  8-Dân chủ và Giáo dục của John Dewey (bản dịch của Phạm Anh Tuấn. NXB. Tri Thức, 2008). Chủ đề: quan hệ giữa chế độ dân chủ và cải cách giáo dục. Sau khi đọc qua các tác giả trên đây (Freud, Marx, Nietzsche, Sandel), ít nhất là các tác phẩm chính, nếu người học cảm thấy thích thú với môn triết thì có thể tiếp tục học môn này ở một bình diện cao hơn và sâu hơn. Dĩ nhiên là việc học triết đòi hỏi sự kiên trì và nhẫn nại rất cao. Lúc đầu nên đi thật chậm và có người cùng học thì hay nhất. Không nên bao giờ có thái độ xem triết học là một thứ trang sức cho bản thân. Nhiều người học triết xem triết học là một loại tri thức như tri thức khoa học có thể đem ra phô trương hay biểu diễn. Đó là một lầm lẫn lớn. Triết học không phải là tri thức. Nó là phương tiện giúp chúng ta chất vấn đời sống, đặt lại mọi vấn đề từ nền tảng, không chấp nhận những ý kiến, phán đoán làm sẵn, những chân lý “đóng hộp”. Triết học giúp chúng ta sáng suốt hơn, tỉnh táo hơn trong nhận thức, chứ không cung cấp tri thức như các ngành khoa học khác. Tại sao lại như vậy? Tri thức hiện đại kể từ thế kỷ thứ XVIII đã bắt đầu một tiến trình chuyên môn hóa và cho đến cuối thế kỷ XX này thì không một nhà bác học nào có thể biết rõ có bao nhiêu lãnh vực chuyên môn chứ đừng nói là nắm vững tất cả các ngành chuyên môn đó. Chính vì thế triết học không còn đóng vai trò “ông trùm tối cao” trong lãnh vực trí thức như ngày xưa. Triết gia phương tây bây giờ gom tất cả năng lực phân tích của mình vào việc phê phán các chân lý đang được chấp nhận đương thời, phê phán không phải để phá hoại niềm tin của kẻ khác, mà để xây dựng một nhãn quan tỉnh táo hơn, không để bị lừa gạt bởi các chuyên gia chế tạo huyền thoại. Triết gia không phải và không muốn đồng hóa với chuyên gia, mặc dù ông ta ngoài chức năng triết lý vẫn có thể là chuyên gia trong một lãnh vực nào đó. Khi khởi sự triết lý thì ông không còn nói năng với tư cách của một chuyên gia tự hạn chế trong một lãnh vực chuyên môn hẹp, mà nói với tư cách một người chất vấn các nền tảng của đời sống, nền tảng của xã hội, của ái tình, của nghệ thuật và đem lại một nhận thức mới mẻ, một cách nhìn sự vật trong viễn cảnh chuyển hóa. Trường hợp Wittgenstein, một triết gia người Áo, là một ví dụ điển hình: ông được đào tạo thành kỹ sư hàng không và có một đam mê mạnh mẽ đối với toán học. Trong khi nghiên cứu về nền tảng của toán học với Bertrand Russell, một triết gia người Anh, Wittgenstein dần dần đi đến triết học và trở thành một trong những triết gia vĩ đại nhất thế giới trong thế kỷ 20. Chính nơi đây mà tôi muốn quay lại với lập luận chính của mình: học triết không cần thiết (thậm chí không nên) bắt đầu với sách triết chuyên ngành. Theo kinh nghiệm của tôi, các sinh viên nên bắt đầu với các sách viết về khoa học tự nhiên (tôi đề nghị sinh học, vật lý học, khoa học thần kinh, trí tuệ nhân tạo), khoa học xã hội (xã hội học, tâm lý học, chính trị học, quan hệ quốc tế, luật pháp), thậm chí cả sử học (các tác giả kinh điển Will Durant, Arnold Toynbee, Niall Ferguson, theo tôi là hay nhất, đầy đủ nhất) và dần dần chuyển qua các triết gia có xuất thân là các nhà khoa học (tôi chọn Edmund Husserl, Merleau-Ponty, Raymond Aron, Henri Bergson, Karl Popper, Thomas Kuhn, Nick Bostrom),  còn những tên tuổi cây đa cây đề cỡ Kant, Hegel, Plato tôi đề nghị đọc sau cùng, trước khi bạn sang thế giới bên kia. Nhưng nếu bạn muốn làm ra vẻ “ta đây hiểu triết học” trước năm 30 tuổi thì xin cứ tự nhiên: ít nhất thì đã có những bản dịch của Bùi Văn Nam Sơn (dịch Kant và Hegel) và Đỗ Khánh Hoan (dịch Plato) sẽ giúp bạn làm điều đó. TS. Dương Ngọc Dũng - Giám đốc Điều hành Thư Hiên Dịch Trường  
  • “XƯỚNG Y” VÀ “CỔ PHÁP” CÓ NGHĨA LÀ GÌ? - TS. DƯƠNG NGỌC DŨNG
    12/ 04/ 2022
    Trong THIỀN UYỂN THANH QUI 禪 苑 清 規 (卍續藏 (X) » 第 63 冊 » No.1245) do Tôn Trách 宗 賾 biên soạn năm 1103 có một đoạn dài nói về việc xướng y chi pháp 唱 衣之法 (tức là bán đấu giá quần áo, XƯỚNG 唱 là hô to giá của món đồ đang được đấu giá) có thể tóm tắt như sau: các quần áo và vật dụng cá nhân của vị sư quá cố được đem trưng bày trong một sảnh đường sau khi việc bán đấu giá đã được thông báo bằng cách niêm yết lên bảng. Khi có chuông báo các nhà sư tiến vào sảnh đường. Trước hết cần phải tụng kinh cho vị sư đã chết, sau đó việc bán đấu giá được tiến hành bởi vị duy na 維 那 (phiên âm tiếng Phạn karmadana). Vị duy na này biết rõ giá trị của các món đồ đem đấu giá và tình trạng mới hay cũ của chúng. Vị này có nhiệm vụ nhắc nhở các nhà sư khác không nên quá “hăng máu” trong việc trả giá để khỏi ân hận về sau. Trừ phi kho tu viện có thêm các mặt hàng khác để đấu giá trong một kỳ bán đấu giá phụ gọi là ký xướng 寄 唱 còn không có đồ đạc nào khác của các vị sư khác được đem ra bán cùng một lúc. Sau đó kết thúc là việc tụng kinh cho vị sư quá cố. Số tiền thu được trong việc bán sau khi trừ vào tiền phí tổn ma chay nếu còn dư sẽ được chia cho các vị sư tụng kinh hay tham gia trong tang lễ hoặc đơn thuần chỉ xuất hiện trong buổi bán đấu giá. Nếu vị sư quá cố khá giàu, nghĩa là số tiền bán được khá lớn một phần tiền gọi là “trừu phần” sẽ được trích ra nộp vào quỹ chung của tu viện. Tất cả biên bản về cuộc bán đấu giá đều được lưu trữ trong sổ sách của tu viện. Cũng theo tác phẩm THIỀN UYỂN THANH QUI nói trên thì nếu một tu viện trưởng về hưu hay phải rời tu viện do tuổi già sức yếu hay do bất kỳ lý do nào khác, các vật dụng tư trang cá nhân của vị đó cũng được bán đấu giá theo phương pháp tương tự. Một văn bản quan trọng khác là BÁCH TRƯỢNG THANH QUI 百 丈 清 規 (大正新脩大正藏經 Vol. 48, No. 2025) do Đức Huy 德 輝 biên tập lại vào năm 1336-1338 căn cứ trên bản luật gốc của thiền sư Bách Trượng Hoài Hải 懷 海 (749-814) biên soạn tại Bách Trượng Sơn (trong tỉnh Giang Tây bây giờ). Tác phẩm biên tập lại vào đời Nguyên này cũng mô tả chi tiết các cuộc bán đấu giá trong tu viện nhưng không gọi là xướng y mà gọi là CỔ PHÁP 估法. Tác phẩm này nói thêm: “Để tránh tiếng ồn ào hỗn loạn nên gần đây đã du nhập phương pháp rút thăm” (近 來 為 息 喧 亂 多 作 鬮 拈 法 cận lai vị tức huyên loạn đa tác cưu niêm pháp. CƯU 鬮 = gắp lấy, dùng vật gì đấy để bói, thí dụ: thám cưu = rút thẻ.).  Sau khi bán đấu giá nếu còn dư lại món gì các nhà sư trong tu viện không mua thì sẽ đem bán ra cho quần chúng ngoài tu viện. Theo một văn bản BÁCH TRƯỢNG THANH QUI vào đầu thế kỷ XVIII có kèm theo lời bình giải thì giá các món đồ này chỉ bằng 70% giá thị trường ưu tiên bán cho các nhà sư du tăng (hành đơn 行 單). Tập tục này có tên là CỔ XƯỚNG 估 唱 (cổ = trả giá). Căn cứ trên các tài liệu này chúng ta có thể suy đoán rằng việc bán đấu giá trong các tu viện Phật giáo bắt đầu suy tàn dần vào cuối đời nhà Nguyên. Đó là tình hình trong các tu viện Trung Quốc, còn Phật Giáo Ấn Độ thì sao? Một văn bản Luật Tạng được dịch vào thời Sơ Đường là Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Ni Đà Na Mục Đắc Ca 根本說一切有部尼陀那目得迦( ĐẠI CHÍNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH 大正新脩大正藏經 cuốn 24, No. 1452) do Nghĩa Tịnh 義 淨 (635-713) dịch  lại cũng nói rằng tại Ấn Độ phải xử lý các tư trang cá nhân của vị sư quá cố bằng cách bán đấu giá. Nguyên tác Phạn ngữ của bộ Luật Tạng nói trên là Mūlasarvāstivāda vinaya (Nghĩa Tịnh chỉ dịch một phần trong bộ Luật Tạng khổng lồ này, dày hơn 8 ngàn trang, bản dịch sang ngôn ngữ Tây Tạng, ấn bản Derge, gồm 13 tập). Bộ Luật Tạng này chủ yếu thông dụng ở Tây Tạng và Mông Cổ. Tại Trung Quốc và Việt Nam chủ yếu tăng ni hành trì theo Tứ Phần Luật.  TƯ LIỆU THAM KHẢO: Gregory Schopen, Buddhist Monks and Business Matters (University of Hawai’i Press, 2004). Schopen là chuyên gia hàng đầu thế giới về Luật Tạng, đặc biệt là bộ luật Mūlasarvāstivāda vinaya có nhắc đến ở trên.   Yifa, The Origins of Buddhist Monastic Codes in China (University of Hawai’i Press, 2002). Đây là bản dịch trọn vẹn bộ THIỀN UYỂN THANH QUI của Tôn Trách sang tiếng Anh với nhiều chú giải hết sức giá trị. TS. Dương Ngọc Dũng - Giám đốc Điều hành Thư Hiên Dịch Trường  
  • MỘT MÓN ĂN KINH KHỦNG - TS. DƯƠNG NGỌC DŨNG
    18/ 04/ 2022
    Trong MẶC TỬ có một đoạn văn rất kỳ lạ như sau: 昔者越之東有輆沐之國者,其長子生則解而食之,謂之宜弟 = Tích giả Việt chi đông hữu Khai Mộc chi quốc giả, kỳ trưởng tử sinh tắc giải nhi thực chi, vị chi nghi đệ  = Xưa ở phía đông nước Việt có nước Khai Mộc, khi đứa con trai đầu lòng sinh ra, họ cắt nhỏ nó ra rồi ăn, nói là như thế có lợi cho em nó (MẶC TỬ 墨子: Tiết táng hạ 節葬下 1). Bản tiếng Anh dịch rất rõ như sau: “Formerly, to the east of Yue, there was the county of the Kaimu. When a first son was born, they cut him up and ate him. They call this “fitting for the younger brother” (Ian Johnston, “The Mozi: A Complete Translation” New York: Columbia University Press, 2010, tr. 227). Tục lệ ăn thịt đứa con trai đầu lòng được nhắc lại trong một nơi khác của MẶC TỬ: “魯陽文君語子墨子曰:‘楚之南有啖人之國者橋,其國之長子生,則鮮而食之,謂之宜弟。美,則以遺其君,君喜則賞其父。豈不惡俗哉?’子墨子曰:雖中國之俗,亦猶是也。殺其父而賞其子,何以異食其子而賞其父者哉?苟不用仁義何以非夷人食其子也?’= Lỗ Dương Văn Quân ngữ tử Mặc tử viết: Sở chi nam hữu Viêm nhân chi quốc giả kiều, kỳ quốc chi trưởng tử sinh, tắc giải nhi thực chi, vị chi nghi đệ. Mỹ tắc dĩ di kỳ quân, quân hỉ tắc thưởng kỳ phụ. Khởi bất ác tục tai? Tử Mặc tử viết: tuy Trung Quốc chi tục, diệc do thị dã. Sát kỳ phụ nhi thưởng kỳ tử, hà dĩ dị thực kỳ tử nhi thưởng kỳ phụ giả tai? Cẩu bất dụng nhân nghĩa, hà dĩ phi di nhân thực kỳ tử dã? = Hoàng tử Dương Văn thuộc nước Lỗ hỏi Mặc tử: “Phía nam nước Sở có một nước của người Viêm tộc tên là Kiều, trong nước hễ sinh con trai đầu là chặt ra ăn thịt, bảo là tốt cho các em sau này. Nếu thịt ngon (MỸ 美), sẽ mang dâng cho vua, vua nếu hài lòng sẽ thưởng cho người cha. Chẳng phải đó là một phong tục dã man sao?” Mặc tử đáp: “Phong tục Trung Quốc cũng thế. Cũng giết cha rồi thưởng cho con, có gì khác với ăn thịt con rồi thưởng cho cha? Nếu không có nhân nghĩa thì tại sao lại chê bai những kẻ man rợ ăn thịt con?”  (MẶC TỬ 墨子: Lỗ vấn 魯問).HẬU HÁN THƯ cũng có chép việc này: 其西有噉人國生首子輒解而食之謂之宜弟。味旨,則以遺其君 君喜而 賞其父。取妻美,則讓其兄。今烏滸人是也 = Kỳ tây hữu Cảm nhân sinh trưởng tử sinh thủ tử triếp giải nhi thực chi vị chi nghi đệ. Vị giai tắc dĩ di kỳ quân quân hĩ nhi thưởng kỳ phụ .Thú thê mỹ, tắc nhượng kỳ huynh. Kim Ô Hử nhân thị dã = Phía tây có nước Cảm sinh con trai đầu lòng là chặt ra ăn luôn, nói là tốt cho em trai. Nếu vị ngon sẽ đem dâng cho vua, vua nếu hài lòng sẽ thưởng cho người cha. Ai cưới vợ đẹp, phải nhường cho anh. Bây giờ là người Ô Hử vậy” (HẬU HÁN THƯ 後漢書: NAM MAN TRUYỆN 南蠻傳). Theo học giả Cừu Tích Khuê 裘錫圭 trong bài viết “SÁT THỦ TỬ GIẢI 殺首子解” (Giải thích việc giết con đầu lòng), tạp chí CHINESE CULTURE 2 (1994): 52–56, đây là một nghi thức tôn giáo liên quan đến việc cúng kiến thần linh, cầu xin mùa màng bội thu. Nhưng theo một học giả khác là Phan Thế Hùng (Phan Thế Hùng 潘世雄, “Sử tịch trung “nghi đệ” chi thuyết khảo thích/ kiêm thích Quảng Tây Ung Ninh Đỉnh Sư sơn tân thạch khí thời đại di chỉ chi giải táng,” 史籍中‘宜弟’之說考釋———兼釋廣西邕寧頂螄山新石器時代遺址肢解葬 đăng trong tạp chí QUẢNG TÂY DÂN TỘC NGHIÊN CỨU 廣西民族研究 số 4 (2004): 121–123) thì có lẽ Mặc tử đã ngộ nhận một phong tục tín ngưỡng của một số dân tộc khu vực châu Ung 邕 thuộc Quảng Tây: họ chặt nhỏ (chi giải 肢解) một đứa bé đã chết trước khi chôn cất vì sợ vong linh của đứa bé đó do chết oan nên sẽ trở về báo oán bằng cách sẽ gây hại cho các đứa em nó sau này. Giải thích này nghe hợp lý hơn vì phù hợp với những dữ liệu về khảo cổ tôn giáo học ở nhiều nơi khác trên thế giới. TS. Dương Ngọc Dũng - Giám đốc Điều hành Thư Hiên Dịch Trường
  • GIỚI THIỆU BỘ SÁCH BÍ THUẬT ĐẠO GIÁO - MANTAK CHIA
    10/ 05/ 2022
    Không phải dễ khi muốn trả lời câu hỏi “Đạo Giáo là gì?” Phải chăng đó là một phong trào tôn giáo cứu thế khởi xuất vào thời Hán trong thế kỉ thứ hai? Phong trào này có gì liên quan đến tư tưởng của Lão Tử và Trang Tử? Các trường phái võ đạo Trung Quốc và những thực hành khí công, đạo dẫn ngày nay phải chăng cũng có thể thu gom vào danh xưng Đạo Giáo? Hay đó là bí quyết dạy thuật trường sinh, bất tử?  Tất cả những câu hỏi trên đều có lời giải đáp mỹ mãn trong bộ Bí Thuật Đạo Giáo của tác giả Mantak Chia và nhiều đạo gia Âu Mỹ khác. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử in ấn Việt Nam độc giả chứng kiến sự xuất hiện một bộ toàn thư về Đạo Giáo đồ sộ như vậy.  Hai tác giả của bộ Bí Thuật Đạo Giáo đã kết hợp hoàn hảo cả ba phần: từ cơ sở lý luận truyền thống của Đạo Giáo, phương pháp thiền định của Phật Giáo, cũng như một nền tảng y sinh học hiện đại vững chắc, các tác giả đã đề ra một phác đồ hoàn chỉnh hướng dẫn người đọc từng bước một tiến nhập vào bí cung của Đan Pháp Đạo Giáo để kéo dài tuổi thọ, tận hưởng cuộc sống hạnh phúc, và trở thành bất tử như chính vũ trụ. Sống mãi mãi cùng đất trời năm tháng chính là mục tiêu tối hậu của các thực hành nội ngoại đan của Đạo Giáo. Chúng ta có thể lắc đầu cho đây là một mơ ước viển vông nhưng những tiến bộ ngoạn mục trong công nghệ sinh học đã hé mở cho nhân loại những viễn cảnh vô cùng mới mẻ cho nhân loại. Viễn cảnh đó, nếu trở thành sự thực, là tai họa khủng khiếp hay là hạnh phúc tràn đầy cho con người thì vẫn còn là một câu hỏi mở cho các triết gia, những nhà đạo đức học, và cơ quan quản lý nhà nước. Khái niệm “trường sinh bất tử” giờ đây không còn là một giấc mơ vớ vẩn của các đạo sĩ đời Hán nữa. Nó xứng đáng được chúng ta xem xét và đánh giá một cách nghiêm túc.
  • BỐN GIẢNG LUẬN VỀ THIỀN CỦA BỒ ĐỀ ĐẠT MA
    17/ 05/ 2022
    Trong truyền thống Thiền học, giác ngộ là tâm tủy của Phật Giáo. Nhưng Thiền không phải giác ngộ, giác ngộ cũng không phải là Thiền. Nói cho thật chính xác, giác ngộ là cứu cánh của Thiền. Muốn thấu triệt chứng ngộ tối hậu, cái gọi là tri thức hàn lâm thuần túy cần phải được chặt đứt từ gốc rễ để được thay thế bằng một trực kiến sâu xa hơn, thâm mật hơn, bắt nguồn từ chính Phật tánh trong chân tâm của hành giả. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Chúng sinh điên đảo không biết không hiểu tâm mình chính là Phật” (Chúng sinh điên đảo, bất giác bất tri tự tâm thị Phật. Huyết mạch luận). Trong tất cả các trường phái Phật Giáo, duy nhất chỉ có Thiền Tông khẳng định sự gắn kết chặt chẽ giữa “kiến tánh” và giác ngộ. Và chính Bồ Đề Đạt Ma là người đầu tiên đặt nền móng cho sự gắn kết ấy. Nếu Thiền học là cốt tủy của Phật Giáo, thì Bồ Đề Đạt Ma là cốt tủy của Thiền Tông. Không thể quan niệm sự ra đời và phát triển của tông môn này nếu không có nhân vật nửa lịch sử nửa huyền thoại này.  Tại Việt Nam có lẽ học giả Trúc Thiên, người dịch quyển thượng trong bộ Thiền Luận của D.T. Suzuki, là người đầu tiên dịch tác phẩm của Bồ Đề Đạt Ma (Sáu cửa vào động Thiếu Thất, An Tiêm, 1971). Đến năm 2006 toàn bộ các tác phẩm được gán cho Bồ Đề Đạt Ma được nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tiến dịch trọn vẹn từ Hán văn sang Việt ngữ (Thiếu Thất lục môn, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2006). Gần đây Công ty CP VH Văn Lang đã cho ra đời bản dịch mới của dịch giả Tiến Thành dựa trên bản tiếng Anh của Red Pine (The Zen Teachings of Bodhidharma). Ưu điểm của bản Red Pine là có kèm theo nguyên tác Hán văn nên dịch giả Tiến Thành, vốn uyên thâm chữ Hán (ông đã từng dịch trọn bộ Hoàng Đế Nội Kinh), có thể tham khảo và phiên dịch trực tiếp rất thuận tiện. Nhưng do căn cứ vào bản Red Pine nên dịch giả Tiến Thành không dịch trọn vẹn hết sáu tác phẩm tương truyền là của Bồ Đề Đạt Ma. Bản dịch lần này chỉ có: Lược đạo Đại Thừa nhập đạo tứ hành quán, Huyết mạch luận, Ngộ tính luận, và Phá tướng luận.   Một số các nhà nghiên cứu (bao gồm cả học giả Nguyễn Minh Tiến) có thái độ nghi ngờ, cho rằng Bồ Đề Đạt Ma chỉ là nhân vật huyền thoại, không có thật trong lịch sử, và những tác phẩm được gán cho ông thật ra là do hậu nhân sở tác. Thật ra trong tình trạng học thuật hiện nay cũng khó lòng đưa ra kết luận cuối cùng về vấn đề này. Văn bản sớm nhất đề cập đến nhân vật Bồ Đề Đạt Ma là Lạc dương già lam ký của Dương Huyễn Chi (khoảng năm 547) người đã gặp một nhà sư tại chùa Vĩnh Ninh tự xưng là Bồ Đề Đạt Ma có tuổi thọ 150 tuổi. Tác phẩm thứ hai là Tục cao tăng truyện của Đạo Tuyên (chết khoảng 667) có viết hẳn một tiểu sử chi tiết về Bồ Đề Đạt Ma (quyển 16) và nêu tên Huệ Khả và Đạo Dục là hai đệ tử của Đạt Ma. Chi tiết Đạt Ma 150 tuổi trong phần tiểu sử này có lẽ vay mượn từ Lạc Dương già lam ký. Đạo Tuyên cũng có thể sử dụng nguồn thông tin của Đàm Lâm (525-543), người biết đến tư tưởng của Đạt Ma thông qua Huệ Khả. Đàm Lâm là người viết lời tựa cho bài giảng pháp  Nhị Nhập tứ hành luận. Đàm Lâm có lẽ đã sử dụng những tài liệu rất xưa vì cùng những thông tin ấy cũng được tìm thấy trong tác phẩm Lăng già sư tư ký được phát hiện tại Đôn Hoàng (có niên đại khoảng từ 713 đến 716). Yanagida Seizan (Liễu Điền Thánh Sơn), chuyên gia Nhật Bản hàng đầu về lịch sử Thiền, đánh giá rất cao tính lịch sử trong lời tựa của Đàm Lâm, mặc dù ông thừa nhận “có nhiều điều rối rắm lộn xộn trong tiểu sử của Đạt Ma” (Chùgoku zenshùshi, tr.12).  Đi vào nội dung các tác phẩm tương truyền là của Bồ Đề Đạt Ma, người chính thức được công nhận là sơ tổ của dòng Thiền Trung Hoa, chúng ta cảm nhận rằng bất kể nhân vật Bồ Đề Đạt Ma là có thật hay không, những tác phẩm này rõ ràng đã nắm được tinh tủy của Thiền học từ bên trong, đặc biệt là phần Phá tướng luận. Có thể khẳng định trong tư tưởng Thiền học sơ nguyên này không hề có sự phân biệt giữa Nam Tông và Bắc Tông, giữa thiền quán và việc đọc tụng kinh điển, giữa trì giới và chứng ngộ, như nhiều người đã ngộ nhận về sau. Không hề có những hành vi hay ngôn ngữ kỳ quái. Không hề có chuyện thần thông thần lực. Trái lại triết lý của Thiền, hay của Phật Giáo nói chung, vẫn chỉ gom vào trong hai chữ “giải thoát,” giải thoát chúng sinh ra khỏi sự chấp trước vào hình tướng, vào những ảo tưởng mê muội dìm sâu chúng ta vào cõi đời phiền não. Tinh thần ấy của Thiền thực sự là một cống hiến lớn vào văn minh nhân loại.
popup

Số lượng:

Tổng tiền: