BỐN GIẢNG LUẬN VỀ THIỀN CỦA BỒ ĐỀ ĐẠT MA

17/ 05/ 2022

Trong truyền thống Thiền học, giác ngộ là tâm tủy của Phật Giáo. Nhưng Thiền không phải giác ngộ, giác ngộ cũng không phải là Thiền. Nói cho thật chính xác, giác ngộ là cứu cánh của Thiền. Muốn thấu triệt chứng ngộ tối hậu, cái gọi là tri thức hàn lâm thuần túy cần phải được chặt đứt từ gốc rễ để được thay thế bằng một trực kiến sâu xa hơn, thâm mật hơn, bắt nguồn từ chính Phật tánh trong chân tâm của hành giả. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Chúng sinh điên đảo không biết không hiểu tâm mình chính là Phật” (Chúng sinh điên đảo, bất giác bất tri tự tâm thị Phật. Huyết mạch luận). Trong tất cả các trường phái Phật Giáo, duy nhất chỉ có Thiền Tông khẳng định sự gắn kết chặt chẽ giữa “kiến tánh” và giác ngộ. Và chính Bồ Đề Đạt Ma là người đầu tiên đặt nền móng cho sự gắn kết ấy. Nếu Thiền học là cốt tủy của Phật Giáo, thì Bồ Đề Đạt Ma là cốt tủy của Thiền Tông. Không thể quan niệm sự ra đời và phát triển của tông môn này nếu không có nhân vật nửa lịch sử nửa huyền thoại này. 

Tại Việt Nam có lẽ học giả Trúc Thiên, người dịch quyển thượng trong bộ Thiền Luận của D.T. Suzuki, là người đầu tiên dịch tác phẩm của Bồ Đề Đạt Ma (Sáu cửa vào động Thiếu Thất, An Tiêm, 1971). Đến năm 2006 toàn bộ các tác phẩm được gán cho Bồ Đề Đạt Ma được nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tiến dịch trọn vẹn từ Hán văn sang Việt ngữ (Thiếu Thất lục môn, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2006). Gần đây Công ty CP VH Văn Lang đã cho ra đời bản dịch mới của dịch giả Tiến Thành dựa trên bản tiếng Anh của Red Pine (The Zen Teachings of Bodhidharma). Ưu điểm của bản Red Pine là có kèm theo nguyên tác Hán văn nên dịch giả Tiến Thành, vốn uyên thâm chữ Hán (ông đã từng dịch trọn bộ Hoàng Đế Nội Kinh), có thể tham khảo và phiên dịch trực tiếp rất thuận tiện. Nhưng do căn cứ vào bản Red Pine nên dịch giả Tiến Thành không dịch trọn vẹn hết sáu tác phẩm tương truyền là của Bồ Đề Đạt Ma. Bản dịch lần này chỉ có: Lược đạo Đại Thừa nhập đạo tứ hành quán, Huyết mạch luận, Ngộ tính luận, và Phá tướng luận.  

Một số các nhà nghiên cứu (bao gồm cả học giả Nguyễn Minh Tiến) có thái độ nghi ngờ, cho rằng Bồ Đề Đạt Ma chỉ là nhân vật huyền thoại, không có thật trong lịch sử, và những tác phẩm được gán cho ông thật ra là do hậu nhân sở tác. Thật ra trong tình trạng học thuật hiện nay cũng khó lòng đưa ra kết luận cuối cùng về vấn đề này. Văn bản sớm nhất đề cập đến nhân vật Bồ Đề Đạt Ma là Lạc dương già lam ký của Dương Huyễn Chi (khoảng năm 547) người đã gặp một nhà sư tại chùa Vĩnh Ninh tự xưng là Bồ Đề Đạt Ma có tuổi thọ 150 tuổi. Tác phẩm thứ hai là Tục cao tăng truyện của Đạo Tuyên (chết khoảng 667) có viết hẳn một tiểu sử chi tiết về Bồ Đề Đạt Ma (quyển 16) và nêu tên Huệ Khả và Đạo Dục là hai đệ tử của Đạt Ma. Chi tiết Đạt Ma 150 tuổi trong phần tiểu sử này có lẽ vay mượn từ Lạc Dương già lam ký. Đạo Tuyên cũng có thể sử dụng nguồn thông tin của Đàm Lâm (525-543), người biết đến tư tưởng của Đạt Ma thông qua Huệ Khả. Đàm Lâm là người viết lời tựa cho bài giảng pháp  Nhị Nhập tứ hành luận. Đàm Lâm có lẽ đã sử dụng những tài liệu rất xưa vì cùng những thông tin ấy cũng được tìm thấy trong tác phẩm Lăng già sư tư ký được phát hiện tại Đôn Hoàng (có niên đại khoảng từ 713 đến 716). Yanagida Seizan (Liễu Điền Thánh Sơn), chuyên gia Nhật Bản hàng đầu về lịch sử Thiền, đánh giá rất cao tính lịch sử trong lời tựa của Đàm Lâm, mặc dù ông thừa nhận “có nhiều điều rối rắm lộn xộn trong tiểu sử của Đạt Ma” (Chùgoku zenshùshi, tr.12). 

Đi vào nội dung các tác phẩm tương truyền là của Bồ Đề Đạt Ma, người chính thức được công nhận là sơ tổ của dòng Thiền Trung Hoa, chúng ta cảm nhận rằng bất kể nhân vật Bồ Đề Đạt Ma là có thật hay không, những tác phẩm này rõ ràng đã nắm được tinh tủy của Thiền học từ bên trong, đặc biệt là phần Phá tướng luận. Có thể khẳng định trong tư tưởng Thiền học sơ nguyên này không hề có sự phân biệt giữa Nam Tông và Bắc Tông, giữa thiền quán và việc đọc tụng kinh điển, giữa trì giới và chứng ngộ, như nhiều người đã ngộ nhận về sau. Không hề có những hành vi hay ngôn ngữ kỳ quái. Không hề có chuyện thần thông thần lực. Trái lại triết lý của Thiền, hay của Phật Giáo nói chung, vẫn chỉ gom vào trong hai chữ “giải thoát,” giải thoát chúng sinh ra khỏi sự chấp trước vào hình tướng, vào những ảo tưởng mê muội dìm sâu chúng ta vào cõi đời phiền não. Tinh thần ấy của Thiền thực sự là một cống hiến lớn vào văn minh nhân loại.

  • ĐỌC THÊM
popup

Số lượng:

Tổng tiền: